Học TậpLớp 12

Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng (3 Dàn ý + 8 mẫu)

Phân tích ba khổ cuối (7, 8, 9) bài thơ Sóng đã khắc họa rất thành công một hình tượng sóng mang nhiều ý nghĩa xuyên suốt bài thơ. Ba khổ thơ cuối bài nhà thơ đã thực sự để lại trong lòng người nhiều ấn tượng với hình ảnh sóng đi cùng với nỗi lo âu, niềm tin và khát vọng của tâm hồn người con gái khi yêu. Ba khổ thơ đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm cũng như khẳng định được vị trí của Xuân Quỳnh trong làng thơ ca hiện đại Việt Nam.

Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng

Phân tích Sóng khổ 7, 8, 9 là tài liệu vô cùng hữu ích gồm 3 dàn ý chi tiết kèm theo 8 bài văn mẫu hay được BNC.Edu.vn tuyển chọn từ bài làm hay của các bạn lớp 12. Qua đó giúp cho tất cả các bạn có thể củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 12 của mình. Bên cạnh đó các bạn tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12. Sau đây, chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Bạn đang xem: Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng (3 Dàn ý + 8 mẫu)

Mục lục

Dàn ý phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng

Dàn ý số 1

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (cũ). XQ là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh. Đặc biệt ba khổ thơ cuối của bài thơ là 3 khổ thơ hay nhất nói về những trăn trở của XQ về tình yêu và kats vọng hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào tình yêu lớn của nhẫn loại để bất tử hóa tình yêu.

II.Thân bài:

a. Về nội dung

– Khổ 7: Suy tư về không gian: rộng đến bao nhiêu, cách trở đến thế nào, nhưng khi đã tìm đến nhau thì nhất định sẽ gặp nhau (chú ý hình ảnh sóng và bờ được nhiều nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận… dùng để diễn tả tình yêu).

– Khổ 8: Suy tư về thời gian: Cụm từ ” tuy dài thế”,” vẫn đi qua”,” dẫu rộng ” như chứa đựng ở đó ít nhiều nỗi lo âu và sự ngậm ngùi của tác giả. Cuộc đời dài nhưng tuổi trẻ của con người là hữu hạn nên không ngăn nổi năm tháng vẫn đi qua. Giống như biển kia dẫu rộng cũng không ngăn nổi 1 đám mây bay về phía cuối chân trời. Nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian nên XQ tiếc cho sự hữu hạn của đời người, sự mong manh của hạnh phúc.

– Yêu tha thiết, mãnh liệt trong tình yêu nhưng ta vẫn bắt gặp những dự cảm lo âu đầy bất trắc của thi sĩ. Dự cảm ấy phù hợp với nguồn cảm hứng thường xuất hiện trong thơ bà.

– Khổ 9: Không phải là sự lắp ghép, hòa nhập mà phải tan vào nhau ngàn năm nồng thắm, rạo rực.

Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao, cái riêng hòa nhập vào trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng tồn tại vĩnh hằng.

Nhưng đó chính là sự ao ước, khát khao, nhà thơ trăn trở kiếm tìm

b. Nghệ thuật đặc sắc:

– Hình ảnh biển và sóng quyện vào nhau trong cả ba khổ thơ, nhưng ở mỗi khổ thơ lại mang một sắc thái khác nhau.

+ Khổ 7: Sóng từ đại dương xa tìm vào với bờ.

+ Khổ 8: Mây tìm đến với biển từ nơi xa.

+ Khổ 9: Tình yêu tan trong tình yêu (tan thành trăm con sóng nhỏ).

– Vần điệu tạo nên một giọng thơ vừa sôi nổi, vừa thiết tha diễn tả rất hay tâm trạng của một tâm hồn đang khát khao, tìm kiếm.

– Đánh giá: XQ đã xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ về tình yêu. Sóng gửi gắm trong đó những suy tư ít nhiều thấp thoáng sự phấp phỏng, lo âu về sự ngắn ngủi của đời người, sự mong manh của hạnh phúc. Cũng bởi thế, bà mông hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào tình yêu lớn của nhân loại để tình yêu ấy mãi mãi được bất tử. Đó cũng là sự hiện đại trong quan niệm tình yêu của bài thơ ” Sóng “

III. Kết bài:

  • Khẳng định giá trị của 3 khổ thơ trong toàn bộ bài thơ
  • Khẳng định tài năng của tác giả.

Dàn ý số 2

1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

  • Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (cũ). Năm 1963, tập thơ Chồi biếc của chị ra đời bộc lộ một hồn thơ phong phú, tươi mới, sôi nổi.
  • Chị liên tiếp cho ra những tập thơ được nhiều người mến mộ, đặc biệt là giới trẻ, như Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Sân ga chiều em đi, Hoa cỏ may.
  • Xuân Quỳnh cùng với chồng là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ mất đột ngột trong một tai nạn giao thông bi thảm năm 1988.
  • Bài Sóng in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968). Đoạn trích này là ở ba khổ thơ cuối cùng của bài thơ.

2. Phân tích:

a) Nghệ thuật đặc sắc:

– Hình ảnh biển và sóng quyện vào nhau trong cả ba khổ thơ, nhưng ở mỗi khổ thơ lại mang một sắc thái khác nhau.

+ Khổ 7: Sóng từ đại dương xa tìm vào với bờ.

+ Khổ 8: Mây tìm đến với biển từ nơi xa.

+ Khổ 9: Tình yêu tan trong tình yêu (tan thành trăm con sóng nhỏ).

– Vần điệu tạo nên một giọng thơ vừa sôi nổi, vừa thiết tha diễn tả rất hay tâm trạng của một tâm hồn đang khát khao, tìm kiếm.

b) Khổ 7: Suy tư về không gian: rộng đến bao nhiêu, cách trở đến thế nào, nhưng khi đã tìm đến nhau thì nhất định sẽ gặp nhau (chú ý hình ảnh sóng và bờ được nhiều nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận… dùng để diễn tả tình yêu).

c) Khổ 8: Suy tư về thời gian: cuộc đời có dài (có lẽ là đời người nói chung), thời gian có khắc nghiệt nhưng rồi vẫn đi qua – đâu vẫn vào đấy.

d) Khổ 9: Còn tình yêu.

  • Không phải là sự lắp ghép, hòa nhập mà phải tan vào nhau ngàn năm nồng thắm, rạo rực.
  • Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao, cái riêng hòa nhập vào trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng tồn tại vĩnh hằng.
  • Nhưng đó chính là sự ao ước, khát khao, nhà thơ trăn trở kiếm tìm (cả trong mơ còn thức).

Dàn ý số 3

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả và tác phẩm

II. Thân bài

1. Khái quát

2. Phân tích

2.1. Nếu sự sống của tình yêu là nỗi nhớ và sự thuỷ chung thì để vượt qua chông gai thử thách, tình yêu lại cần đến niềm tin; niềm tin chính là đôi cánh để giúp tình yêu vượt qua “muôn vời cách trở”:

– Hai câu thơ đầu Xuân Quỳnh lại quay về đối diện với biển cả, nhưng lần này không phải là để chất vấn mình về nguồn gốc của sóng, gió hay cội nguồn của tình yêu nữa mà chính là để cất lên niềm tin:

Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó

Hai chữ “đại dương” gợi lên sự vô cùng vô tận của biển cả mênh mông, của vũ trụ bao la. Cách nói “trăm ngàn” là ước lượng hoá, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: sóng dù “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”; là “dữ dội, ồn ào” hay “dịu êm, lặng lẽ”, dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc hành trình tìm về bến bờ quen thuộc.

– Hai câu thơ sau là sự khẳng định:

Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

+ Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”; câu sau như một điều kiện “dù muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế. Khi ta muốn khẳng định điều gì đó là chắc chắn thì ta thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau. Điều này làm cho ý thơ bỗng trở nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời những khó khăn và trở ngại, dù bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ hướng đến bờ, vẫn vượt qua không gian, thời gian để đến với bờ. Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến được với người mình yêu.

+ Nếu để ý kỹ ta sẽ thấy, khổ thơ có cấu trúc đảo độc đáo. Chúng ta có thể thay đổi trật tự các câu thơ trong khổ thơ này, đặc biệt là hai câu thơ cuối có thể đảo vị trí cho nhau: “dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ”; nhưng không làm mất đi kết cấu của khổ thơ, cũng như không làm mất đi nội dung của khổ thơ – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi. Điều này thêm một lần Xuân Quỳnh khẳng định: với người phụ nữ khi yêu, một khi đã lấy “phương anh” làm hướng để quy về thì dù vật đổi sao dời cũng không thể nào làm em thay đổi. Có lẽ vì vậy mà trong đời thường Xuân Quỳnh luôn lấy niềm tin như cứu cánh của đời mình, chị đã bám vào niềm tin mà đứng dậy sau những đổ vỡ, lấy tin yêu vá lại trái tim đầy tổn thương của chính mình để tiếp tục “Tự hát” với đời:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

Niềm tin vào tình yêu chính là sức mạnh, là động lực để con người vượt qua những nắng nôi, giông bão của cuộc đời. Trong bài “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh cũng từng hát lên những ca từ lạc quan tin yêu như thế:

Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ

“Hàng cây”, “dòng sông” phải trải qua “bão gió, thác lũ” nhưng cuối cùng thì tất cả cũng “đã qua”, “đã yên” như tình yêu của anh và em với “muôn vời cách trở” nhưng cuối cùng vẫn trọn vẹn đường yêu. Vâng! Chính niềm tin ấy trong tình yêu của Xuân Quỳnh đã đưa chị đến với đời để cho tiếng thơ đi vào cõi bất tử.

2.2. Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế: “Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”.

Quả thật như thế , mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ nhưng ở khổ thơ này lại đầy ắp những âu lo, dự cảm.

Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và cái vô hạn (thời gian và biển lớn):

Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

“Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu. Nỗi lo âu đó ở phụ nữ là điều có thật như chính Xuân Quỳnh đã từng viết cho Lưu Quang Vũ:

Em cảm thấy em già rồi, già về thể chất đã đành nhưng em lại còn già về sự yên phận của người đàn bà, về những sự nhỏ nhen tầm thường của đời sống.

Em nhìn mặt em trong gương, em thấy em không xứng đáng với anh.

[…] Vậy cho nên lúc nào em cũng thấy tình yêu của chúng ta mong manh. Em buồn lắm….Em rất muốn em trẻ đẹp lại cho tuổi tác và hình thức của mình. Có thể anh không cần như thế, nhưng em cần như thế. Vì chắc chắn rằng em trẻ hơn và đẹp hơn, anh sẽ yêu em hơn”.

Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.

2.3. Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ.

Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

– Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ

+ Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hòa mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.

+ “Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai- Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uytman). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.

+ Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:

Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).

Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở “chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hòa vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.

3. Nghệ thuật

– Thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu.

– Sử dụng các phép tu từ: nhân hóa, ẩn dụ…

– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế

– Giọng thơ mềm mại, nữ tính

III. Kết bài

Nêu cảm nhận của em về đoạn thơ trên

Phân tích 3 khổ thơ cuối bài Sóng – Mẫu 1

Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác khi bà ở biển Diêm Điền vào năm 1967, sau đó bài thơ được tin trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đây là một trong những tác phẩm mà nhiều độc giả nhớ nhất khi nhắc đến thơ Xuân Quỳnh. “Sóng” là một bài thơ hay trọn vẹn, nhưng phân tích 3 khổ cuối bài sóng sẽ thấy rõ giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm.

Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh mang âm hưởng của tiếng sóng của biển khơi và cả tiếng sóng trong lòng của một hồn thơ đang khao khát tình yêu. Hai hình ảnh “sóng” và “em” xuất hiện song hành đã tạo nên cho bài thơ sự đáng yêu, dịu dàng.

Phần đầu của bài thơ “Sóng”, nữ sĩ Xuân Quỳnh thể hiện quan niệm về tình yêu, cùng với vẻ đẹp mang tính chuẩn mực truyền thống, tình yêu gắn liền với nỗi nhớ, với lòng thủy chung và cũng không thể thiếu niềm tin, nghị lực. Và khi phân tích 2 khổ cuối bài sóng, ta sẽ thấy hình ảnh một nữ sĩ với ước vọng về một tình yêu tan vào sóng để tình yêu hóa bất tử vĩnh hằng.

Đọc cả bài thơ ta thấy quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh, ngoài vẻ đẹp truyền thống là nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt và nghị lực niềm tin. Đến 3 khổ cuối, ta còn thấy nữ sĩ có một ước vọng thật đẹp là tình yêu được tan vào sóng để dâng hiến và bất tử vĩnh hằng.

Xuân Quỳnh được nhiều độc giả yêu mến không chỉ bởi sự đa tài mà còn bởi những vần thơ chân thành, giàu tình cảm và cũng rất đằm thắm như cách mà nữ thi sĩ yêu. Bởi vậy, chỉ có sóng mới là hình ảnh phù hợp nhất để tác giả thể hiện tình yêu nồng nhiệt của những người trẻ tuổi. Ba khổ thơ cuối là tiêu biểu cho tinh thần này.

Tình yêu dù trong sáng, mãnh liệt đến đâu, lãng mạn bay bổng đến đâu thì vẫn gắn với đời thường. Vì thế những người đang yêu ngoài sự say mê còn phải có đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của cuộc đời, với niềm tin sẽ tới đích:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Niềm tin và nghị lực, em tìm thấy ở thiên nhiên và chính mình. Khi đã yêu thật lòng, dù muôn vời cách trở chúng mình cũng vẫn đến được với nhau.

Dường như mọi thứ đều trở nên hợp lý khi người ta chìm đắm vào tình yêu. Và chẳng mấy ai khi đang yêu nồng cháy lại không mơ mộng về những ngày tháng tươi đẹp, về hạnh phúc phía trước. Xuân Quỳnh có lẽ cũng không ngoại lệ. Thế nhưng, dù khi yêu là chất ngất, là dâng trọn trái tim, Xuân Quỳnh cũng đồng thời tin rằng, những người yêu nhau sẽ có được hạnh phúc nếu biết kiên nhẫn, bởi sức mạnh của mỗi người trong đó có sức mạnh tình yêu được tạo nên bởi ý chí riêng của con người.

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Qua đây ta thấy tác giả đang muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu lãng mạn lắm và những kẻ đang yêu cũng lắm điều mơ mộng, nhưng dù mơ mộng đến đâu cũng phải nhìn vào thực tế. Con người ta khi yêu thường không còn đủ lý trí, nhưng tình yêu chỉ đẹp, chỉ có ý nghĩa khi nó gắn liền với những lý lẽ, những quy luật của cuộc đời. Những lý lẽ, quy luật ấy hẳn rằng có nhiều nỗi trái ngang, nhiều trở ngại. Điều này đòi hỏi sự chân thành và gắn bó giữa hai người để vượt qua khó khăn và vun đắp tình yêu vững bền, tình yêu mà tất cả những ai đang yêu, được yêu và muốn đều hướng tới.

Cuộc đời con người vô thường, dài ngắn cũng không biết đong đếm ra sao. Nhưng dù dài bao nhiêu, năm tháng vẫn trôi qua mà không chờ đợi ai. Và biển rộng cũng là thách thức, khó khăn trước mắt của tình yêu. Biển rộng được sử dụng đối sánh với từ dài của cuộc đời. Nhưng dài, rộng thế, nhưng mây vẫn cứ trôi, vạn vật cũng vẫn sinh tồn và cứ tin đi, tình yêu đôi ta đủ chân thành, thắm thiết rồi sẽ bền mãi với thời gian.

Đứng trước biển, những cảm thấu về tình yêu trỗi dậy, và những con sóng với Xuân Quỳnh như là tình yêu “bồi hồi trong ngực trẻ”. Bởi bồi hồi mà bà khát khao yêu, để rồi mong ước mãnh liệt:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Cái câu hỏi “làm sao” ấy là lời tác giả tự hỏi cho mình, cũng là hỏi cho biết bao những kẻ đang yêu. Nhưng cũng như nhiều câu hỏi khác trong tình yêu, thật khó để có một câu trả lời cụ thể. Ước muốn được “tan ra” ấy chính là biểu hiện của tình yêu to lớn không thể đong đếm được. Xuân Quỳnh ước được biến thành “trăm ngàn con sóng nhỏ” để được hòa mình vào bể đời rộng lớn, được thoát khỏi những lo ấy, những băn khoăn mà toàn tâm toàn ý tận cùng tình yêu tuổi trẻ mãnh liệt, ngọt ngào và hạnh phúc. Tình yêu chẳng ai biết trước mai sau, nhưng hôm nay khi yêu hãy yêu như chưa từng được sống. Có lẽ những người đang yêu cũng mang khát vọng như Xuân Quỳnh, là được chia sẻ, được tha thiết nói về tình yêu của mình với mọi người, để hòa vào với “biển lớn tình yêu”. Như thế, tình yêu sẽ còn tồn tại đến ngàn năm sau.

Qua 3 khổ cuối bài sóng của Xuân Quỳnh, ta như được chìm vào không gian ngập tràn tình yêu. Bài thơ kết thúc, nhưng âm hưởng của tình yêu còn vang mãi. Thể thơ năm chữ có tiết tấu nhanh góp phần thể hiện được khát khao được yêu của nữ sĩ.

Hình ảnh những con sóng biển có lẽ cũng là những cơn sóng cuộc đời, có lúc dữ dội, có lúc dịu êm. Và dù trong khó khăn hay lúc bình lặng, điều cần nhất và cũng dễ nhất là hãy cứ yêu thương.

Đã nhiều năm trôi qua, quan niệm tình yêu của mỗi thế hệ đều có những thay đổi, nhưng có lẽ bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh mãi là tiếng lòng của những người đang yêu, khao khát được yêu. Bởi chẳng có ai yêu mà lại không khao khát hạnh phúc, khao khát vững bền. Vì vậy, thơ của Xuân Quỳnh sẽ còn khiến người đời nhớ mãi như cách người ta nhớ đến chị, người phụ nữ luôn sống hết mình cho cuộc đời.

Phân tích khổ 7, 8, 9 bài thơ Sóng – Mẫu 2

Nhà thơ Xuân Quỳnh đã bước vào địa hạt của thi ca với hành trang là tiếng nói của một trái tim chân thành, nhiệt huyết, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình. Điều đó cũng được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Sóng” của nhà thơ, đặc biệt là qua ba khổ cuối bài thơ đã nói lên những lo âu, niềm dự cảm nhưng vẫn luôn tin tưởng và hi vọng về một tình yêu vĩnh cửu trong cuộc đời qua cách nhìn của nhà thơ.

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Để đến được bến bờ hạnh phúc của tình yêu luôn không hề dễ dàng, con người luôn phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, cách trở. Sẽ có những hành trình tình yêu sẽ đến được trái ngọt nhưng cũng có những hành trình tình yêu phải kết thúc dang dở, lỡ mối nhân duyên. Và chính sức mạnh của niềm tin sẽ giúp các cặp đôi đến được bến bờ hạnh phúc dù cho thử thách ra sao. Và chỉ khi đến được bến bờ con sóng mới thôi thao thức. Tình yêu đích thực luôn tin vào bến bờ hạnh phúc và luôn khao khát được đặt chân đến miền đất đó.

Mặc dù biết rằng khi yêu con người cần có niềm tin nhưng chúng ta vẫn luôn mang trong mình những dự cảm, lo âu đặc biệt là với tâm hồn nhạy cảm của người phụ nữ:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Dòng thời gian vẫn luôn chảy trôi không ngừng nghỉ một đi không bao giờ trở lại đối lập với sự hữu hạn của đời người, sự vô tình của cuộc đời với kiếp người ngắn ngủi. Cuộc đời rất dài nhưng rồi vẫn qua đi vì năm tháng vẫn tiếp diễn. vì thế nhiều khi tình yêu của con người không thể vượt qua nổi thời gian và sự tàn phai theo năm tháng. Chính vì thế mà người phụ nữ luôn lo âu về tương lai về tình yêu với những trăn trở băn khoăn là điều không thể nào tránh khỏi được. Thơ là tình yêu là định mệnh của Xuân Quỳnh, là mối dây ràng buộc nhà thơ, là động lực giúp Xuân Quỳnh vượt qua những trắc trở của cuộc đời. Thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn chinh phục mọi người từ nhiều thế hệ với những cảm xúc nồng nàn. Phong cách thơ từ đó cũng định hình và được in đậm trong bài thơ này, và cả đoạn thơ trên.

Kết thúc bài thơ là niềm tin, hi vọng, khát khao được vĩnh cửu hóa tình yêu của nhà thơ:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Ở đây làm người đọc liên tưởng đến câu chuyện cô nàng tiên cá muốn trở thành bọt biển để cứu sống người mình yêu. Trong đoạn thơ trên khát vọng muốn vĩnh hằng tình yêu được thể hiện rất rõ qua từ ‘trăm con sóng’ không thể nào kể xiết. Khát vọng ấy cũng là muốn hòa nhập vào biển lớn tình yêu để trở thành một tình yêu lâu bền và trường tồn.

Trước Xuân Quỳnh đã có không ít những nhà thơ nữ viết về tình yêu nhưng hiếm có ai dám bày tỏ trực tiếp và mãnh liệt như Xuân Quỳnh. Dám nói thật lòng mình, điều đó chứng tỏ nhà thơ không những có niềm tin vào cuộc đời mà còn vững tin ở chính bản thân mình. Con sóng Xuân Quỳnh dẫu có tan ra thành trăm con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu, giữ biển lớn cuộc đời thì vẫn cứ là con sóng Xuân Quỳnh vỗ mãi đến ngàn năm.

Trong mối tương quan của bền chặt với con người, “ Sóng” của Xuân Quỳnh còn là suy ngẫm tâm tư rất riêng của nhà thơ giãi bày với cuộc đời để từ đó nhận ra một tâm hồn thơ của nữ sĩ cá tính. Bài thơ đã vượt ra không khí của hiện thực chiến tranh, vượt qua cái chết và khổ đau để ca ngợi sự sống vĩnh cửu của tình yêu, tạo thêm một nét đáng yêu của con người thời đại chống Mĩ biết yêu thương chung thủy và tìm ra lẽ sống tốt đẹp trên cơ sở của sự hài hòa những quan hệ riêng chung.

Ba khổ thơ cuối khép lại toàn bài thơ nhưng lại mở ra trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ về tình yêu, về những cảm xúc, tâm trạng của người con gái trong tình yêu. Nhịp điệu tâm hồn của người con gái được biểu hiện qua nhịp điệu của những con sóng. Từ đó cũng đã thể hiện phong cách thơ Xuân Quỳnh vừa tinh tế, nhạy cảm, vừa táo bạo mãnh liệt trong tình yêu. Tình yêu vẫn luôn là một ẩn bí hấp dẫn bất cứ một nghệ sĩ nào ghé qua mảnh đất ấy và khi Xuân Quỳnh đặt chân đến đã để lại một bản lĩnh, một tinh thần độc đáo, riêng biệt.

Phân tích Sóng khổ 7 8 9 – Mẫu 3

“Vì thích thú, làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Vì uất ức, khi mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi quyết phải sống, mà sống tức là phải viết”. Chính bởi luôn tâm niệm như vậy nên Xuân Quỳnh đã sáng tạo và đem đến cho người đọc rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó có bài thơ “Sóng”. Ba khổ thơ cuối của bài được coi là những dòng thơ chứa chan cảm xúc, nghĩ suy của người con gái trong tình yêu, lưu lại trong tâm hồn người đọc nhiều dư âm cảm xúc mãnh liệt.

Xuân Quỳnh là một nhà thơ mồ côi mẹ sớm, phải sống với bà từ nhỏ. Có lẽ vì thế trong thơ nữ sĩ luôn thường trực một niềm khát khao yêu thương và sự thiết tha hạnh phúc gia đình. Rời bỏ nghề diễn viên múa trong tiếc nuối của người hâm mộ, Xuân Quỳnh đã lưu dấu ấn cá nhân mình trong trái tim người đọc với một vai trò mới – một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Say mê, đắm mình trong thơ ca, nữ sĩ coi thơ là sự sống, là tình yêu, là toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời mình. Một cách tài hoa và đầy tinh tế, nhà thơ đã gửi tiếng lòng của một tâm hồn giàu trắc ẩn, táo bạo nhưng cũng rất mực đằm thắm vào những trang thơ. “Sóng” là một bài thơ nổi bật của nhà thơ, được viết năm 1967 trong chuyến đi thực tế Xuân Quỳnh đến biển Diêm Điền, Thái Bình. Những cảm xúc dạt dào, những nghĩ suy sâu lắng nhà thơ gửi vào những câu thơ, hình ảnh trong ba khổ thơ cuối bài đã thực sự để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng.

Sau khi phác họa hình tượng sóng cùng những quy luật của tình yêu, hành trình tìm kiếm nguồn cội hay những sắc thái của tình yêu, nhà thơ Xuân Quỳnh tiếp tục thể hiện suy nghĩ của mình về nỗi nhớ, sự thủy chung và khát vọng trong tình yêu qua hình tượng sóng ở ba khổ thơ cuối bài. Khổ thơ thứ bảy và tám nhà thơ nói đến niềm tin và dự cảm âu lo về tình yêu trong trái tim người con gái:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Đì cùng với niềm tin mãnh liệt là những dư vang của một dự cảm đầy lo âu ngổn ngang trong tâm trí người con gái. Cặp quan hệ từ “tuy..vẫn”, “dẫu…vẫn” như trầm xuống, như lắng lại trong một niềm suy tư xen lẫn cảm giác ngậm ngùi. Hình ảnh thơ trong đoạn cũng khẳng định: giống như cuộc đời bao la chẳng có gì là vĩnh cửu ngoài kia, tình yêu trong trái tim con người cũng chỉ là một thoáng phù vân dễ đến nhưng cũng dễ tan biến. Chính bởi vậy mà khi còn đang độ thanh xuân trẻ tuổi dại lòng, Xuân Quỳnh đã từng gửi những suy tư của bản thân vào những câu thơ: “Nhưng tôi biết mùa xuân rồi sẽ qua/ Hôm nay non mai cỏ sẽ già”. Ý thơ Xuân Quỳnh ở đây như có sự gặp gỡ cảm xúc thơ trong “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần gặp lại”

Từ yêu, người con gái bỗng có những lo âu, dự cảm về sự bền lâu của tình yêu. Đó dường như cũng là một biểu hiện của trái tim đang yêu tha thiết, nồng nàn.

Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ là những khát vọng của người con gái trong tình yêu được nhà thơ gửi gắm qua hình tượng sóng:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Khát vọng “tan ra” ở đây có lẽ chính là khát khao cháy bỏng được hóa thân vào sóng để tồn tại trong cái vô cùng của không gian biển cả bao la và thời gian vĩnh hằng của vũ trụ. Nhà thơ khiến ta cảm tưởng như người con gái, hay cũng chính là tâm tư nhà thơ, đang khát khao được vĩnh viễn hóa tình yêu, để dùng tình yêu thiêng liêng, đẹp đẽ để nối dài cái hữu hạn, cái ngắn ngủi của một đời người.

Xuân Quỳnh đã phác họa ra một hình tượng sóng mang nhiều ý nghĩa xuyên suốt bài thơ để gửi gắm những ý niệm sâu xa, cảm xúc mãnh liệt của bản thân khi nghĩ về tình yêu. Ba khổ thơ cuối bài nhà thơ đã thực sự để lại trong lòng người nhiều ấn tượng với hình ảnh sóng đi cùng với nỗi lo âu, niềm tin và khát vọng của tâm hồn người con gái khi yêu. Ba khổ thơ đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm cũng như khẳng định được vị trí của Xuân Quỳnh trong làng thơ ca hiện đại Việt Nam.

Phân tích Sóng khổ 7, 8, 9 – Mẫu 4

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là một tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Ngoài những tác phẩm đã trở thành ca khúc bất tử như “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”…thì “Sóng” cũng là bài thơ về tình yêu có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc. “Sóng” không chỉ thể hiện những nét tương đồng, những chiều dài của nỗi nhớ, những băn khoăn trong tình yêu mà còn thể hiện những suy tư lo âu trăn trở trước cuộc đời và khát vọng tình yêu, những nỗi niềm khát vọng ấy được thể hiện rõ nét trong đoạn thơ sau:

“Ở ngoài kia đại dương

Để ngàn năm còn vỗ”

Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác tại biển Diêm Điền, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển cũng chính là con sóng lòng đang khát khao tình yêu. Bài thơ có hai hình tượng song hành “sóng” và “em”

Để có được tình yêu vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt vừa trong sáng thủy chung thì con sóng phải vượt qua đại dương mênh mông để đến với “bờ anh”

“Ở ngoài kia đại dương
….
Dù muôn vời cách trở”

Người phụ nữ đang yêu tin vào tình yêu sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù trải qua bao khó khăn thử thách. Đúng vậy! Một tình yêu chân chính, đích thực, một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu sẽ giúp họ vượt qua bao sóng gió cuộc đời cập đến bến bờ tương lai của hạnh phúc. Hãy nhìn vào hiện thực như trở thành quy luật, dù gió có ở thật xa nơi bãi bờ thì nó cũng sẽ tìm đến những bãi cát dài dù trải qua thật nhiều khó khăn, cũng như vậy! tình yêu của em dù gặp biết bao trở ngại em vẫn vượt qua để đến bên anh, đến một mái ấm gia đình như Chế Lan Viên từng viết:

“Cây nối đầu cây chạy đến em
Đếm cây hoài lại mọc cây thêm
Tình anh làm cái cây sau chót
Về tới quê em mọc tận thềm”

Cũng như vậy ba khổ thơ với nỗi nhớ, sự trăn trở và tấm lòng chung thủy son sắt cùng với phép lặp,nhân hóa, ẩn dụ,sử dụng cách nói ngược với những hình ảnh đối lập đã khẳng định niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, tình yêu đẹp sẽ vượt qua mọi thử thách. Tha thiết với tình yêu, khao khát sống mãi trường tồn với tình yêu nhà thơ đã có chút khắc khoải, lo âu về sự tan chảy của thời gian, đời người cũng mong manh và hạnh phúc của trái tim yêu Xuân Quỳnh cũng vậy. Nhưng nhớ da diết, yêu thương nồng nàn luôn đồng hành với nỗi lo âu khắc khoải:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Đời người trăm năm ngỡ dài thăm thẳm nhưng con tàu thời gian cứ vun vút lao đi không chờ đợi chúng ta. Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đầy nhạy cảm nhà thơ nhận ra vũ trụ mãi vĩnh hằng – cuộc đời con người thì hữu hạn

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua”

Lo lắng tình yêu đổ vỡ, phai nhạt, khi đứng trước sự chảy trôi của thời gian. Nhưng người phụ nữ ấy vẫn luôn tin vào tương lai của tình yêu, vào ý nghĩa đích thực của tình yêu

“Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Niềm tin, khát khao được sống mãi với tình yêu,người con gái ấy khát khao hóa thân vĩnh hằng vào tình yêu bất tử. Người phụ nữ nhỏ bé đã muốn

Làm sao được tan ra.

Để ngàn năm còn vỗ

Đó là khát vọng được tan ra thành trăm con sóng lớn nhỏ hòa vào biển lớn để vỗ mãi ngàn năm khúc hát tình yêu. Khát khao bất tử hóa trong tình yêu nhưng trái tim nhà thơ không vị kỷ, tầm thường, nhỏ nhen cho riêng mình mà thật lớn lao, cao thượng. Nhà thơ đã hòa niềm hạnh phúc của riêng mình trong niềm hạnh phúc của cuộc đời rộng lớn, cái riêng tồn tại trong cái ta chung, bao la, rộng lớn ấy đã trở thành vĩnh cửu. Đó là một trái tim yêu rất Xuân Quỳnh

“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai cũng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

Lúc muốn tan ra thành sóng, lúc muốn trở về đúng nghĩa trái tim. Xoay trở mọi hướng, ao ước bao điều, trái tim yêu Xuân Quỳnh vẫn hướng về mục đích duy nhất: tình yêu vĩnh cửu. Ao ước tan ra thành trăm con sóng nhỏ đâu chỉ thỏa khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu mà còn là cháy hết mình, dân hiến hết mình của nữ sĩ.

Đoạn thơ trên trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, tác giả không chỉ thành công ở nội dung mà còn thành công ở mặt nghệ thuật trong việc sử dụng thể thơ năm chữ truyền thống, cách ngắt nhịp gieo vần độc đáo, giàu sức liên tưởng, xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết

Qua những suy tư, lo âu khát vọng trong tình yêu nói riêng và qua bài thơ Sóng nói chung, đã cho người đọc một cảm nhận mới mẻ và sâu sắc hơn trong tình yêu. Nó vượt qua mọi giới hạn, mọi quy luật để tồn tại mãi mãi vĩnh hằng trong tình yêu bất tử. Đó chính là giá trị nhân văn lớn lao mà Xuân Quỳnh để lại cho đọc giả mọi thế hệ qua bài thơ Sóng.

Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng – Mẫu 5

Nhà thơ Huy Cận đã từng nói, khi đi cạnh bờ biển, thấy có cảm giác xao động đến kì lạ trong con người. Với ông, cái xao động kì lạ đó chính là cảm giác về sự lớn lao của con người khi đi dọc bờ biển, tuy mênh mông ấy, nhưng con người vẫn như làm chủ được thiên nhiên, biển cả. Còn với Xuân Quỳnh – người con gái xứ lụa Hà Đông, thì cái ngợm ngợm khi đi dọc bờ biển bao la, với những con sóng thi nhau tấp vào bờ, lại là sóng tình, sóng trong lòng người con gái đang yêu nói chung và tác giả nói riêng. Một tình yêu với những nỗi trăn trở, khát khao được hòa quyện trong cái tình cảm bao la ấy.

Nếu Lưu Quang Vũ được coi là kịch tác gia tiêu biểu, tiên phong trong việc giải phẫu ung nhọt của con người về lòng tham sau khi chiến tranh kết thúc,thì Xuân Quỳnh, thơ của Xuân Quỳnh lại mang khát khao yêu thương, khát khao là thế nhưng vẫn đầy trắc ẩn. Ba khổ thơ cuối trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người con gái đang yêu khát khao được yêu thương, gắn bó.

Với chủ đề tình yêu, đã không ít bài thơ sử dụng những vần thơ để nói lên tiếng lòng nhớ thương da diết

“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi tới non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”

(Chinh phụ ngâm khúc)

Hay:

“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai”

Đều là nỗi nhớ thương trong tình yêu, nhưng mỗi nhà thơ có một cách thể hiện nỗi lòng mình rất khác nhau. Chiếc khăn tay, chiếc vòng kỉ niệm hay những bức thư tình, với Xuân Quỳnh, bà sử dụng hình ảnh ngọn sóng để diễn tả tình yêu của mình, tiếng sóng như tiếng lòng lúc “dữ dội” lúc “dịu êm” lúc “ồn ào” khi “lặng lẽ”

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn ngàn cách trở”

Em hướng về anh, như sóng hướng vào bờ. Như ngay trước mắt ta, hình ảnh người con gái đang đứng bên bờ biển, nhỏ bé nhưng trong lòng đầy nỗi khắc khoải mong chờ. Khoảng cách cũng là một trở ngại trong tình yêu, nhưng với Xuân Quỳnh, dù có xa cách nhưng trong lòng luôn có một niềm tin, không hề “xa mặt mà cách lòng”. Tuy trong lòng vẫn mang niềm tin đó, sự chờ đợi là thế, nhưng dường như trong lòng người con gái đang đứng kia vẫn có một chút hờn trách người mình yêu, nhưng không hề ích kỉ, hờn trách là thế, nhưng trong lòng vẫn tràn đầy niềm tin và sự mong chờ. Dù xa xôi bao nhiêu, khoảng cách dù lớn như thế nào, thì sóng vẫn cứ mãi tấp vào bờ, bờ sinh ra là để cho sóng vỗ, như bến đậu bình yên. Tự như một lời trách móc nhẹ nhàng “Trăm ngàn con sóng – Con nào chẳng tới bờ” còn anh thì sao ? Trong tình yêu, một chút nhớ, một chút thương, một chút dỗi hờn làm cho cuộc sống thêm phần thi vị. Xuân Quỳnh mượn hình ảnh sóng để nói lên tâm trạng mình, đây không chỉ là con sóng vô tri vô giác nữa, mà đã trở thành sóng tình, sóng trong lòng tác giả, sóng của người con gái đang yêu. Sóng và bờ giờ đây như có thể, nó được thổi hồn, mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu. Sóng không còn là “Sóng gợn Trường Giang … “trong thơ Huy Cận, mà đã thành sóng tình, sục sôi trong lòng người đang yêu. Qua hình ảnh bài thơ, ta thấy một Xuân Quỳnh trong tình yêu, vừa táo bạo chủ động, vừa đằm thắm thủy chung, một nét đẹp rất truyền thống của người dân Việt Nam. Đã có bao cuộc tình, dù khó khăn cách trở như Thúy Kiều – Kim Trọng, họ phải xa cách, gặp bao nhiêu khó khăn trong tình yêu, nhưng cuối cùng họ vẫn vượt qua, và tìm được nhau, như “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ “, Xuân Quỳnh luôn tin vào cái gì đó, như sức mạnh vô hình trong tình yêu. Không gian là vậy, tác giả lại trăn trở trước cuồng quay của thời gian

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn trôi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn trôi về xa”

Câu thơ thể hiện một nét rất nữ tính trong tình yêu. Cuộc đời tuy dài thế, nhưng dài là bao lâu ? Thời gian thi vẫn hàng ngày trôi qua. Cuộc đời tuy dài thế, biển kia tuy rông đến mấy, nhưng cũng làm sao níu kéo được thời gian, thanh xuân vẫn dần trôi qua, làm sao có thể giữ lại. Đây là nỗi trăn trở của Xuân Quỳnh, cũng là tiếng lòng của bao người con gái đang yêu khác. Mặc dù dẫu cho yêu hết mình, một lòng son sắc, nhưng cuộc đời thì ngắn ngủi làm sao sống mãi trong tình yêu. Vì thế Xuân Quỳnh đã khao khát

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Để ngàn năm còn vỗ
Giữa biển lớn tình yêu”

Khao khát đó lớn dần, như muốn phá tan không gian và thời gian, muốn được tan ra hòa quyện trong tình yêu đó. Không chờ đợi đối phương đáp trả, vẫn mãnh liệt, ào ạt tình thương. Người ta có nói, trong tình yêu lắm ích kỷ, hẹp hòi, nhưng với Xuân Quỳnh không hề có một sự ích kỷ hẹp hòi nào, mốt sự hy sinh, một khao khát được hòa quyện vào biển lớn tình yêu. Khao khát ấy thật hợp lý khi họ đang đắm chìm trong tình yêu thương. Xuân Quỳnh hiểu được, chỉ như vậy thì tình yêu mới bền vững tồn tại mãi mới thời gian.

Một Xuân Quỳnh nhẹ nhàng đằm thắm, một Xuân Quỳnh khiến người khác nể phục khi trong tình yêu, dám yêu hết mình, dám hy sinh, dám khao khát và mơ mộng. Qua bài thơ Sóng nói chung và ba khổ thơ cuối bài thơ nói riêng, ta thấy một Xuân Quỳnh đầy chất thơ lãng mạn, một nhà thơ tài năng trong phong trào thơ ca của kho tàng dân tộc Việt Nam. Với giọng điệu nhẹ nhàng, lúc mãnh liệt, đôi khi sâu lắng , ba khổ thơ cuối đã cho ta thấy, một tâm hồn trăn trở, khao khát yêu thương gắn bó. Một tình yêu đẹp, lãng mạn, sự hy sinh trong tình yêu của tác giả.

Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng – Mẫu 6

Có những vần thơ tình đẹp như thế. Như giọng chim ríu rít đa điêu đa thanh giữa mùa xuân. Có những vần thơ nói lên niềm tin và mong ước về tình yêu hạnh phúc đẹp như thế:

“Cuộc đời tuy dài thế

Để ngàn năm còn vỗ”

Đây là hai khổ thơ cuối bài thơ ngũ ngôn trường một bài thơ tình tuyệt tác viết về nỗi khát vọng tình yêu của thiếu nữ.

Từ thương nhớ đợi chờ: “Cả trong mơ còn thức” tâm hồn thiếu nữ ánh lên một niềm tin mãnh liệt trong tình yêu. “Năm tháng” nhất định sẽ “đi qua” cuộc đời “dài” . “Mây” trên bầu trời nhất định sẽ vượt qua biển “rộng” để “bay xa”. Thời gian dài dằng dặng gian rộng mênh mông, cũng như tình yêu là vô cùng mãnh liệt:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”.

Câu 1, 2 song hành đối xứng với câu 3, 4 làm cho giọng thơ, âm điệu thơ tha thiết, ngọt ngào. Cấu trúc chính – phụ được sử dụng đắc địa: “tuy… vẫn… “, “dẫu… vẫn”, ý thơ được khẳng định mạnh mẽ. Điệp từ “vẫn” biểu lộ một niềm tin về tình yêu: “Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. “Năm tháng” và “mây” là 2 ẩn dụ nói về tình yêu, một tình yêu đẹp hướng tới hạnh phúc.

Tình yêu như con sóng trên biển: “Dữ dội êm – Ồn ào và lặng”. Có lúc “em” lại cảm thấy cô đơn trong xa cách:

“Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nói
Nhưng bây giờ chỉ có sóng và em”.

(“Chỉ có sóng và em”)

Lại có lúc tràn ngập nỗi nhớ khắc khoải chờ mong:

“Còn hiện tại của em là nỗi nhớ
Thời gian ơi sao không đổi sắc màu”.

(“Thời gian trắng”)

Còn ở khổ thơ này là niềm tin, một niềm tin mãnh liệt: Con thuyền tình nhất định cập bến bờ hạnh phúc. Nữ sĩ đã lấy độ dài của thời gian, chiều rộng của không gian để đo niềm tin về tình yêu hạnh phúc. Các từ ngữ: “vẫn đi qua”, “vẫn bay về xa” là sự kết đọng “đinh ninh lời thề” của một tình yêu đẹp.

Khổ cuối bài thơ là lời nguyện cầu của em về một tình yêu thủy chung bền vững. Hình tượng sóng hội tụ bao cảm xúc nồng hậu:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.

Hai tiếng “làm sao” gợi lên một niềm mong ước cháy bỏng tâm hồn “em”. Sóng trên đại dương trường tồn bất diệt. “Trăm con sóng nhỏ” rì rào vỗ, xôn xao reo “giữa biển lớn tình yêu” mang vẻ đẹp nhân văn cao quý của tình yêu. Đó là niềm ước mong của thiếu nữ được sống trong hạnh phúc bền vững như những con sóng vỗ mãi trên “biển lớn tình yêu” đến ngàn năm sau. Con số “ngàn năm”, “nghìn năm”, hơn một lần đã từng làm ta xúc động:

“Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề”

“Thề non nước”

Tản Đà

Tình yêu không hề làm cho em trở nên nhỏ bé ích kỷ; trái lại tình yêu của em sẽ mãi mãi chan hòa trong tình thương của đồng bào, xã hội. Một ý tưởng rất đẹp, rất mới trong tình yêu. Một trái tim đa tình và nhân hậu biết bao!

Nói đến thơ là nói đến nhạc điệu, vần điệu. Đoạn thơ trên đây có điệu thơ nhẹ nhàng, đằm thắm. Vần thơ phong phú, nhạc điệu dư ba. Sự phối hợp giữa vần bằng và vấn trắc, giữa vần liền và vần cách rất tinh tế, nhịp nhàng. Từ “qua” bắt vần với “xa” và “ra”; chữ “nhỡ” hiệp vẫn với “vỗ”, đọc lên nghe rất thú vị.

Đoạn thơ hội tụ bão vẻ đẹp. Một ý tưởng đẹp: niềm tin về tình yêu hạnh phúc. Lời thơ đẹp: thanh tao, ý vị. Giọng thơ nồng nàn, ngọt ngào. Hình tượng “con sóng nhỏ” và “biển lớn tình yêu” rất sáng tạo. Đoạn thơ mang vẻ đẹp nhân văn sáng giá

Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng – Mẫu 7

Nhắc đến tên tuổi của nhà thơ Xuân Quỳnh ta biết đến “chị nổi lên trên dàn đồng ca chung thời kì lửa cháy”, chị nổi lên như một nốt nhạc tươi xanh trong nền văn chương Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cùng với những nhà thơ như: Trần Mạnh Hảo, Trần Đăng Khoa, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Nguyễn Khoa Điềm… Xuân Quỳnh trưởng thành trong nền văn chương thời kì kháng chiến. Thời kì kháng chiến chống Mỹ là giai đoạn mà chị viết sung sức, viết đều tay và để lại rất nhiều bài thơ hay trên dòng chảy của nền văn học Việt Nam như bài “Tự hát” “Hoa cỏ may” “Hoa dọc chiến hào”… Nếu ta theo sát sự nghiệp sáng tác của Xuân Quỳnh ta sẽ nhận thấy điểm mạnh trong thơ ca của Xuân Quỳnh đó là nỗi niềm âu lo vấp vỏng của người con gái khi đứng trước hạnh phúc đời thường. “Sóng” là một bài thơ như thế, được viết khi tác giả đứng trước biển Diêm Điền. Viết về tâm tư của người con gái, mang khát vọng xô tới bờ anh. Trở lại với Xuân Diệu, Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” là một hoàng tử của tình yêu, là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới trưởng thành trước năm 1945. Là nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất đến nền thơ ca Việt Nam. Đặc biệt là thơ mới. Nhà thơ Xuân Diệu là nhà thơ bị ám ảnh bởi bước đi của thời gian, là một nhà thơ bị ảnh hưởng nhiều bởi thơ ca phương Tây. Một trong số tác phẩm tiêu biểu của Xuân Diệu phải kể đến đó là bài thơ “Vội vàng” được rút ra từ tập “Thơ thơ” , một bông hoa đầu mùa đầy hương sắc của Xuân Diệu. Mặc dù Xuân Quỳnh và Xuân Diệu có những sở trường và điểm yếu khác nhau, họ có phong cách riêng. Nhưng họ đồng điệu khi viết về khát vọng của tuổi trẻ và tình yêu.

Bài thơ Sóng gồm 9 khổ thơ, mỗi khổ mang cho mình một vẻ đẹp rất riêng cũng như tình cảm của người con gái trong tình yêu. Trong thơ ca xưa thì sóng luôn luôn tượng trưng cho nỗi lòng của người con trai. Như trong bài Biển của Xuân Diệu đã từng viết:

“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Hôn đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt”

Còn trong bài thơ Sóng, lần đầu tiên ta thấy, người chủ động trong tình yêu lại là con gái .

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Ở khổ thơ này, nếu sóng tượng trưng cho tình cảm của người con gái, còn bờ là tượng trưng cho tình cảm người con trai thì ở đây đại dương là tượng trưng cho xã hội rộng lớn mênh mông bao la, hàng triệu hàng tỷ người phụ nữ đang yêu và mong muốn được yêu. Khát vọng của tình yêu đó là niềm tin của nhà thơ vào tình yêu. Mặc dù khi nhắc về tình yêu, nhà thơ Xuân Quỳnh đã trải qua rất nhiều biến cố và thăng trầm trong tình cảm. nhưng chị vẫn có niềm tin vững chắc vào tình yêu, rồi ai hoặc ai đi chăng nữa, cũng sẽ tìm được một nửa tình yêu cho đời mình. Trong cuộc sống hay trong tình yêu cũng vậy, rõ ràng không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng và đã là những người thực lòng yêu nhau thì họ sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn và thử thách. Đó chính là vẻ đẹp của khổ thơ thứ 7.

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Thơ là tiếng nói cảm xúc, là tiếng nói của con tim. Khổ thơ thứ 8 đều là những câu thơ, những trải nghiệm sống, những triết lý sống, những câu thơ rất đỗi bình thường, giản dị. Và nó đều là những câu thơ rất mộc mạc. Nói về điều gì? Về những sự thật, những hiển nhiên trong đời. Tình yêu xuất hiện trong mỗi chúng ta như những điều rất hiển nhiên, rất đỗi bình thường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói trong bản Tuyên ngôn độc lập: “Mọi người sinh ra đều có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc và đây là những quyền không ai có thể xâm phạm được.”. Hoặc chúng ta có thể biết đến thơ ca của Xuân Diệu, ông đã từng nói rằng:

“Làm sao sống được mà không yêu,
Không nhớ không thương một kẻ nào?”

Ở đây ta thấy, tình yêu xuất hiện một cách rất đỗi tự nhiên, đỗi chân thành, giản dị, mộc mạc và bình thường. Đó là những mưu cầu rất đỗi bình thường của con người.

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Đến với khổ 9, đó là khi sóng đến với bờ anh. Bài thơ “Sóng” là một cuộc hành trình của sóng đến với bờ anh. Và khi đến với bờ anh thì khát vọng của nó đó là được “tan ra” và hòa vào nhau để trở thành là một. Để tình yêu ấy trở nên trường tồn và bất tử với thời gian. Thời gian trôi qua, khiến chúng ta già đi nhưng nó không có nghĩa khiến tình yêu trở nên nhàm chán. Mà tình yêu của ta sẽ trường tồn, bất tử với thời gian dù cuộc đời con người là hữu hạn. Thế nhưng, tình yêu chúng ta dành cho nhau sẽ là vô hạn đó là niềm khát khao được cháy hết mình và sống hết mình cho tình yêu.

Trở lại với tác phẩm Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu, những câu thơ cuối khác hẳn với câu thơ đầu.

“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Ở những câu thơ đầu, nhân xưng của tác giả là tôi . “Tôi muốn tắt nắng” “Tôi muốn buộc gió” một cái tôi đầy bản lĩnh. Tắt nắng để những gam màu cuộc sống không phai nhạt . Buộc gió để giữ lại những hương thơm hương sắc của cuộc đời, giữ lại những gì đẹp nhất ,đó là ước muốn đoạt lấy quyền uy của vũ trụ. Đó chính là Xuân Diệu – ông vua của mảng thơ tình. Là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Thế mà, đến những câu thơ này ta lại bắt gặp đó là từ cái tôi của cá nhân. Trong bài thơ “Hy Mã Lạp Sơn” của Xuân Quỳnh:

“Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất.
Không có chi bè bạn nối cùng ta”

Phân tích 3 khổ cuối bài thơ Sóng – Mẫu 8

Xuân Quỳnh là một trong những cây bút trẻ xuất sắc nhất trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhà thơ đi sâu vào khai phá sức mạnh của đời sống nội tâm, kỉ niệm tuổi thơ, tình yêu, gia đình, hiện thực đời sống và những sự kiện xã hội như một bối cảnh cho tâm trạng. Do vậy thơ Xuân Quỳnh có xu hướng hướng nội, rất tâm trạng cá nhân nhưng không phải một thứ tháp ngà, xa lạ với đời sống. Bài thơ Sóng thể hiện sâu sắc phong cách thơ ấy. Nếu ở đầu bài thơ, nữ sĩ tìm cách lí giải ngọn nguồn của tình yêu thì đến khổ thơ 7, nhà thơ trở về với những rung động vĩnh hằng của con tim, làm toát lên vẻ đẹp hồn hậu của người phụ nữ trong tình yêu hết sức nhuần nhị.

Nếu sự sống của tình yêu là nỗi nhớ và sự thuỷ chung thì để vượt qua chông gai thử thách, tình yêu lại cần đến niềm tin; niềm tin chính là đôi cánh để giúp tình yêu vượt qua “muôn vời cách trở”: Hai câu thơ đầu Xuân Quỳnh lại quay về đối diện với biển cả, nhưng lần này không phải là để chất vấn mình về nguồn gốc của sóng, gió hay cội nguồn của tình yêu nữa mà chính là để cất lên niềm tin:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó”

Hai chữ “đại dương” gợi lên sự vô cùng vô tận của biển cả mênh mông, của vũ trụ bao la. Cách nói “trăm ngàn” là ước lượng hoá, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: sóng dù “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”; là “dữ dội, ồn ào” hay “dịu êm, lặng lẽ”, dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc hành trình tìm về bến bờ quen thuộc. Hai câu thơ sau là sự khẳng định:

“Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”; câu sau như một điều kiện “dù muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế. Khi ta muốn khẳng định điều gì đó là chắc chắn thì ta thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau. Điều này làm cho ý thơ bỗng trở nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời những khó khăn và trở ngại, dù bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ hướng đến bờ, vẫn vượt qua không gian, thời gian để đến với bờ. Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến được với người mình yêu.

Trật tự các câu thơ trong khổ thơ này, đặc biệt là hai câu thơ cuối có thể đảo vị trí cho nhau: “dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ”; nhưng không làm mất đi kết cấu của khổ thơ, cũng như không làm mất đi nội dung của khổ thơ – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi. Điều này thêm một lần Xuân Quỳnh khẳng định: với người phụ nữ khi yêu, một khi đã lấy “phương anh” làm hướng để quy về thì dù vật đổi sao dời cũng không thể nào làm em thay đổi. Có lẽ vì vậy mà trong đời thường Xuân Quỳnh luôn lấy niềm tin như cứu cánh của đời mình, chị đã bám vào niềm tin mà đứng dậy sau những đổ vỡ, lấy tin yêu vá lại trái tim đầy tổn thương của chính mình để tiếp tục “Tự hát” với đời:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

Niềm tin vào tình yêu chính là sức mạnh, là động lực để con người vượt qua những nắng nôi, giông bão của cuộc đời. Trong bài “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh cũng từng hát lên những ca từ lạc quan tin yêu như thế:

“Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ”

“Hàng cây”, “dòng sông” phải trải qua “bão gió, thác lũ” nhưng cuối cùng thì tất cả cũng “đã qua”, “đã yên” như tình yêu của anh và em với “muôn vời cách trở” nhưng cuối cùng vẫn trọn vẹn đường yêu. Vâng! Chính niềm tin ấy trong tình yêu của Xuân Quỳnh đã đưa chị đến với đời để cho tiếng thơ đi vào cõi bất tử.

Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế: “Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”. Quả thật như thế , mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ nhưng ở khổ thơ này lại đầy ắp những âu lo, dự cảm.

Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và cái vô hạn (thời gian và biển lớn):

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

“Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu.

Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.

Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ. Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ”

Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hòa mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.

“Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai – Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uytman). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.

Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:

“Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).

Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở “chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc.

Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hòa vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.

Thơ Xuân Quỳnh giản dị nhưng không bao giờ cũ vì nó cũng có triết lí. Đó là thứ triết lí của thi ca, thứ triết lí đôn hậu của một người phụ nữ làm thơ. Xuân Quỳnh nói chuyện tình yêu, chuyện cái chết, chuyện được, chuyện mất một cách rất giản dị mà thấu nhập và đọng mãi lòng người.

Đăng bởi: BNC.Edu.vn

Chuyên mục: Tài Liệu Học Tập

Xem thêm Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng (3 Dàn ý + 8 mẫu)

Phân tích ba khổ cuối (7, 8, 9) bài thơ Sóng đã khắc họa rất thành công một hình tượng sóng mang nhiều ý nghĩa xuyên suốt bài thơ. Ba khổ thơ cuối bài nhà thơ đã thực sự để lại trong lòng người nhiều ấn tượng với hình ảnh sóng đi cùng với nỗi lo âu, niềm tin và khát vọng của tâm hồn người con gái khi yêu. Ba khổ thơ đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm cũng như khẳng định được vị trí của Xuân Quỳnh trong làng thơ ca hiện đại Việt Nam.

Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng

Phân tích Sóng khổ 7, 8, 9 là tài liệu vô cùng hữu ích gồm 3 dàn ý chi tiết kèm theo 8 bài văn mẫu hay được BNC.Edu.vn tuyển chọn từ bài làm hay của các bạn lớp 12. Qua đó giúp cho tất cả các bạn có thể củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 12 của mình. Bên cạnh đó các bạn tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12. Sau đây, chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Dàn ý phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng

Dàn ý số 1

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (cũ). XQ là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh. Đặc biệt ba khổ thơ cuối của bài thơ là 3 khổ thơ hay nhất nói về những trăn trở của XQ về tình yêu và kats vọng hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào tình yêu lớn của nhẫn loại để bất tử hóa tình yêu.

II.Thân bài:

a. Về nội dung

– Khổ 7: Suy tư về không gian: rộng đến bao nhiêu, cách trở đến thế nào, nhưng khi đã tìm đến nhau thì nhất định sẽ gặp nhau (chú ý hình ảnh sóng và bờ được nhiều nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận… dùng để diễn tả tình yêu).

– Khổ 8: Suy tư về thời gian: Cụm từ ” tuy dài thế”,” vẫn đi qua”,” dẫu rộng ” như chứa đựng ở đó ít nhiều nỗi lo âu và sự ngậm ngùi của tác giả. Cuộc đời dài nhưng tuổi trẻ của con người là hữu hạn nên không ngăn nổi năm tháng vẫn đi qua. Giống như biển kia dẫu rộng cũng không ngăn nổi 1 đám mây bay về phía cuối chân trời. Nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian nên XQ tiếc cho sự hữu hạn của đời người, sự mong manh của hạnh phúc.

– Yêu tha thiết, mãnh liệt trong tình yêu nhưng ta vẫn bắt gặp những dự cảm lo âu đầy bất trắc của thi sĩ. Dự cảm ấy phù hợp với nguồn cảm hứng thường xuất hiện trong thơ bà.

– Khổ 9: Không phải là sự lắp ghép, hòa nhập mà phải tan vào nhau ngàn năm nồng thắm, rạo rực.

Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao, cái riêng hòa nhập vào trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng tồn tại vĩnh hằng.

Nhưng đó chính là sự ao ước, khát khao, nhà thơ trăn trở kiếm tìm

b. Nghệ thuật đặc sắc:

– Hình ảnh biển và sóng quyện vào nhau trong cả ba khổ thơ, nhưng ở mỗi khổ thơ lại mang một sắc thái khác nhau.

+ Khổ 7: Sóng từ đại dương xa tìm vào với bờ.

+ Khổ 8: Mây tìm đến với biển từ nơi xa.

+ Khổ 9: Tình yêu tan trong tình yêu (tan thành trăm con sóng nhỏ).

– Vần điệu tạo nên một giọng thơ vừa sôi nổi, vừa thiết tha diễn tả rất hay tâm trạng của một tâm hồn đang khát khao, tìm kiếm.

– Đánh giá: XQ đã xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ về tình yêu. Sóng gửi gắm trong đó những suy tư ít nhiều thấp thoáng sự phấp phỏng, lo âu về sự ngắn ngủi của đời người, sự mong manh của hạnh phúc. Cũng bởi thế, bà mông hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào tình yêu lớn của nhân loại để tình yêu ấy mãi mãi được bất tử. Đó cũng là sự hiện đại trong quan niệm tình yêu của bài thơ ” Sóng “

III. Kết bài:

  • Khẳng định giá trị của 3 khổ thơ trong toàn bộ bài thơ
  • Khẳng định tài năng của tác giả.

Dàn ý số 2

1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

  • Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (cũ). Năm 1963, tập thơ Chồi biếc của chị ra đời bộc lộ một hồn thơ phong phú, tươi mới, sôi nổi.
  • Chị liên tiếp cho ra những tập thơ được nhiều người mến mộ, đặc biệt là giới trẻ, như Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Sân ga chiều em đi, Hoa cỏ may.
  • Xuân Quỳnh cùng với chồng là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ mất đột ngột trong một tai nạn giao thông bi thảm năm 1988.
  • Bài Sóng in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968). Đoạn trích này là ở ba khổ thơ cuối cùng của bài thơ.

2. Phân tích:

a) Nghệ thuật đặc sắc:

– Hình ảnh biển và sóng quyện vào nhau trong cả ba khổ thơ, nhưng ở mỗi khổ thơ lại mang một sắc thái khác nhau.

+ Khổ 7: Sóng từ đại dương xa tìm vào với bờ.

+ Khổ 8: Mây tìm đến với biển từ nơi xa.

+ Khổ 9: Tình yêu tan trong tình yêu (tan thành trăm con sóng nhỏ).

– Vần điệu tạo nên một giọng thơ vừa sôi nổi, vừa thiết tha diễn tả rất hay tâm trạng của một tâm hồn đang khát khao, tìm kiếm.

b) Khổ 7: Suy tư về không gian: rộng đến bao nhiêu, cách trở đến thế nào, nhưng khi đã tìm đến nhau thì nhất định sẽ gặp nhau (chú ý hình ảnh sóng và bờ được nhiều nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận… dùng để diễn tả tình yêu).

c) Khổ 8: Suy tư về thời gian: cuộc đời có dài (có lẽ là đời người nói chung), thời gian có khắc nghiệt nhưng rồi vẫn đi qua – đâu vẫn vào đấy.

d) Khổ 9: Còn tình yêu.

  • Không phải là sự lắp ghép, hòa nhập mà phải tan vào nhau ngàn năm nồng thắm, rạo rực.
  • Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao, cái riêng hòa nhập vào trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng tồn tại vĩnh hằng.
  • Nhưng đó chính là sự ao ước, khát khao, nhà thơ trăn trở kiếm tìm (cả trong mơ còn thức).

Dàn ý số 3

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả và tác phẩm

II. Thân bài

1. Khái quát

2. Phân tích

2.1. Nếu sự sống của tình yêu là nỗi nhớ và sự thuỷ chung thì để vượt qua chông gai thử thách, tình yêu lại cần đến niềm tin; niềm tin chính là đôi cánh để giúp tình yêu vượt qua “muôn vời cách trở”:

– Hai câu thơ đầu Xuân Quỳnh lại quay về đối diện với biển cả, nhưng lần này không phải là để chất vấn mình về nguồn gốc của sóng, gió hay cội nguồn của tình yêu nữa mà chính là để cất lên niềm tin:

Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó

Hai chữ “đại dương” gợi lên sự vô cùng vô tận của biển cả mênh mông, của vũ trụ bao la. Cách nói “trăm ngàn” là ước lượng hoá, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: sóng dù “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”; là “dữ dội, ồn ào” hay “dịu êm, lặng lẽ”, dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc hành trình tìm về bến bờ quen thuộc.

– Hai câu thơ sau là sự khẳng định:

Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

+ Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”; câu sau như một điều kiện “dù muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế. Khi ta muốn khẳng định điều gì đó là chắc chắn thì ta thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau. Điều này làm cho ý thơ bỗng trở nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời những khó khăn và trở ngại, dù bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ hướng đến bờ, vẫn vượt qua không gian, thời gian để đến với bờ. Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến được với người mình yêu.

+ Nếu để ý kỹ ta sẽ thấy, khổ thơ có cấu trúc đảo độc đáo. Chúng ta có thể thay đổi trật tự các câu thơ trong khổ thơ này, đặc biệt là hai câu thơ cuối có thể đảo vị trí cho nhau: “dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ”; nhưng không làm mất đi kết cấu của khổ thơ, cũng như không làm mất đi nội dung của khổ thơ – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi. Điều này thêm một lần Xuân Quỳnh khẳng định: với người phụ nữ khi yêu, một khi đã lấy “phương anh” làm hướng để quy về thì dù vật đổi sao dời cũng không thể nào làm em thay đổi. Có lẽ vì vậy mà trong đời thường Xuân Quỳnh luôn lấy niềm tin như cứu cánh của đời mình, chị đã bám vào niềm tin mà đứng dậy sau những đổ vỡ, lấy tin yêu vá lại trái tim đầy tổn thương của chính mình để tiếp tục “Tự hát” với đời:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

Niềm tin vào tình yêu chính là sức mạnh, là động lực để con người vượt qua những nắng nôi, giông bão của cuộc đời. Trong bài “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh cũng từng hát lên những ca từ lạc quan tin yêu như thế:

Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ

“Hàng cây”, “dòng sông” phải trải qua “bão gió, thác lũ” nhưng cuối cùng thì tất cả cũng “đã qua”, “đã yên” như tình yêu của anh và em với “muôn vời cách trở” nhưng cuối cùng vẫn trọn vẹn đường yêu. Vâng! Chính niềm tin ấy trong tình yêu của Xuân Quỳnh đã đưa chị đến với đời để cho tiếng thơ đi vào cõi bất tử.

2.2. Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế: “Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”.

Quả thật như thế , mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ nhưng ở khổ thơ này lại đầy ắp những âu lo, dự cảm.

Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và cái vô hạn (thời gian và biển lớn):

Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

“Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu. Nỗi lo âu đó ở phụ nữ là điều có thật như chính Xuân Quỳnh đã từng viết cho Lưu Quang Vũ:

Em cảm thấy em già rồi, già về thể chất đã đành nhưng em lại còn già về sự yên phận của người đàn bà, về những sự nhỏ nhen tầm thường của đời sống.

Em nhìn mặt em trong gương, em thấy em không xứng đáng với anh.

[…] Vậy cho nên lúc nào em cũng thấy tình yêu của chúng ta mong manh. Em buồn lắm….Em rất muốn em trẻ đẹp lại cho tuổi tác và hình thức của mình. Có thể anh không cần như thế, nhưng em cần như thế. Vì chắc chắn rằng em trẻ hơn và đẹp hơn, anh sẽ yêu em hơn”.

Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.

2.3. Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ.

Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

– Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ

+ Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hòa mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.

+ “Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai- Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uytman). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.

+ Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:

Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).

Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở “chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hòa vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.

3. Nghệ thuật

– Thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu.

– Sử dụng các phép tu từ: nhân hóa, ẩn dụ…

– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế

– Giọng thơ mềm mại, nữ tính

III. Kết bài

Nêu cảm nhận của em về đoạn thơ trên

Phân tích 3 khổ thơ cuối bài Sóng – Mẫu 1

Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác khi bà ở biển Diêm Điền vào năm 1967, sau đó bài thơ được tin trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đây là một trong những tác phẩm mà nhiều độc giả nhớ nhất khi nhắc đến thơ Xuân Quỳnh. “Sóng” là một bài thơ hay trọn vẹn, nhưng phân tích 3 khổ cuối bài sóng sẽ thấy rõ giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm.

Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh mang âm hưởng của tiếng sóng của biển khơi và cả tiếng sóng trong lòng của một hồn thơ đang khao khát tình yêu. Hai hình ảnh “sóng” và “em” xuất hiện song hành đã tạo nên cho bài thơ sự đáng yêu, dịu dàng.

Phần đầu của bài thơ “Sóng”, nữ sĩ Xuân Quỳnh thể hiện quan niệm về tình yêu, cùng với vẻ đẹp mang tính chuẩn mực truyền thống, tình yêu gắn liền với nỗi nhớ, với lòng thủy chung và cũng không thể thiếu niềm tin, nghị lực. Và khi phân tích 2 khổ cuối bài sóng, ta sẽ thấy hình ảnh một nữ sĩ với ước vọng về một tình yêu tan vào sóng để tình yêu hóa bất tử vĩnh hằng.

Đọc cả bài thơ ta thấy quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh, ngoài vẻ đẹp truyền thống là nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt và nghị lực niềm tin. Đến 3 khổ cuối, ta còn thấy nữ sĩ có một ước vọng thật đẹp là tình yêu được tan vào sóng để dâng hiến và bất tử vĩnh hằng.

Xuân Quỳnh được nhiều độc giả yêu mến không chỉ bởi sự đa tài mà còn bởi những vần thơ chân thành, giàu tình cảm và cũng rất đằm thắm như cách mà nữ thi sĩ yêu. Bởi vậy, chỉ có sóng mới là hình ảnh phù hợp nhất để tác giả thể hiện tình yêu nồng nhiệt của những người trẻ tuổi. Ba khổ thơ cuối là tiêu biểu cho tinh thần này.

Tình yêu dù trong sáng, mãnh liệt đến đâu, lãng mạn bay bổng đến đâu thì vẫn gắn với đời thường. Vì thế những người đang yêu ngoài sự say mê còn phải có đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của cuộc đời, với niềm tin sẽ tới đích:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Niềm tin và nghị lực, em tìm thấy ở thiên nhiên và chính mình. Khi đã yêu thật lòng, dù muôn vời cách trở chúng mình cũng vẫn đến được với nhau.

Dường như mọi thứ đều trở nên hợp lý khi người ta chìm đắm vào tình yêu. Và chẳng mấy ai khi đang yêu nồng cháy lại không mơ mộng về những ngày tháng tươi đẹp, về hạnh phúc phía trước. Xuân Quỳnh có lẽ cũng không ngoại lệ. Thế nhưng, dù khi yêu là chất ngất, là dâng trọn trái tim, Xuân Quỳnh cũng đồng thời tin rằng, những người yêu nhau sẽ có được hạnh phúc nếu biết kiên nhẫn, bởi sức mạnh của mỗi người trong đó có sức mạnh tình yêu được tạo nên bởi ý chí riêng của con người.

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Qua đây ta thấy tác giả đang muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu lãng mạn lắm và những kẻ đang yêu cũng lắm điều mơ mộng, nhưng dù mơ mộng đến đâu cũng phải nhìn vào thực tế. Con người ta khi yêu thường không còn đủ lý trí, nhưng tình yêu chỉ đẹp, chỉ có ý nghĩa khi nó gắn liền với những lý lẽ, những quy luật của cuộc đời. Những lý lẽ, quy luật ấy hẳn rằng có nhiều nỗi trái ngang, nhiều trở ngại. Điều này đòi hỏi sự chân thành và gắn bó giữa hai người để vượt qua khó khăn và vun đắp tình yêu vững bền, tình yêu mà tất cả những ai đang yêu, được yêu và muốn đều hướng tới.

Cuộc đời con người vô thường, dài ngắn cũng không biết đong đếm ra sao. Nhưng dù dài bao nhiêu, năm tháng vẫn trôi qua mà không chờ đợi ai. Và biển rộng cũng là thách thức, khó khăn trước mắt của tình yêu. Biển rộng được sử dụng đối sánh với từ dài của cuộc đời. Nhưng dài, rộng thế, nhưng mây vẫn cứ trôi, vạn vật cũng vẫn sinh tồn và cứ tin đi, tình yêu đôi ta đủ chân thành, thắm thiết rồi sẽ bền mãi với thời gian.

Đứng trước biển, những cảm thấu về tình yêu trỗi dậy, và những con sóng với Xuân Quỳnh như là tình yêu “bồi hồi trong ngực trẻ”. Bởi bồi hồi mà bà khát khao yêu, để rồi mong ước mãnh liệt:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Cái câu hỏi “làm sao” ấy là lời tác giả tự hỏi cho mình, cũng là hỏi cho biết bao những kẻ đang yêu. Nhưng cũng như nhiều câu hỏi khác trong tình yêu, thật khó để có một câu trả lời cụ thể. Ước muốn được “tan ra” ấy chính là biểu hiện của tình yêu to lớn không thể đong đếm được. Xuân Quỳnh ước được biến thành “trăm ngàn con sóng nhỏ” để được hòa mình vào bể đời rộng lớn, được thoát khỏi những lo ấy, những băn khoăn mà toàn tâm toàn ý tận cùng tình yêu tuổi trẻ mãnh liệt, ngọt ngào và hạnh phúc. Tình yêu chẳng ai biết trước mai sau, nhưng hôm nay khi yêu hãy yêu như chưa từng được sống. Có lẽ những người đang yêu cũng mang khát vọng như Xuân Quỳnh, là được chia sẻ, được tha thiết nói về tình yêu của mình với mọi người, để hòa vào với “biển lớn tình yêu”. Như thế, tình yêu sẽ còn tồn tại đến ngàn năm sau.

Qua 3 khổ cuối bài sóng của Xuân Quỳnh, ta như được chìm vào không gian ngập tràn tình yêu. Bài thơ kết thúc, nhưng âm hưởng của tình yêu còn vang mãi. Thể thơ năm chữ có tiết tấu nhanh góp phần thể hiện được khát khao được yêu của nữ sĩ.

Hình ảnh những con sóng biển có lẽ cũng là những cơn sóng cuộc đời, có lúc dữ dội, có lúc dịu êm. Và dù trong khó khăn hay lúc bình lặng, điều cần nhất và cũng dễ nhất là hãy cứ yêu thương.

Đã nhiều năm trôi qua, quan niệm tình yêu của mỗi thế hệ đều có những thay đổi, nhưng có lẽ bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh mãi là tiếng lòng của những người đang yêu, khao khát được yêu. Bởi chẳng có ai yêu mà lại không khao khát hạnh phúc, khao khát vững bền. Vì vậy, thơ của Xuân Quỳnh sẽ còn khiến người đời nhớ mãi như cách người ta nhớ đến chị, người phụ nữ luôn sống hết mình cho cuộc đời.

Phân tích khổ 7, 8, 9 bài thơ Sóng – Mẫu 2

Nhà thơ Xuân Quỳnh đã bước vào địa hạt của thi ca với hành trang là tiếng nói của một trái tim chân thành, nhiệt huyết, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình. Điều đó cũng được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Sóng” của nhà thơ, đặc biệt là qua ba khổ cuối bài thơ đã nói lên những lo âu, niềm dự cảm nhưng vẫn luôn tin tưởng và hi vọng về một tình yêu vĩnh cửu trong cuộc đời qua cách nhìn của nhà thơ.

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Để đến được bến bờ hạnh phúc của tình yêu luôn không hề dễ dàng, con người luôn phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, cách trở. Sẽ có những hành trình tình yêu sẽ đến được trái ngọt nhưng cũng có những hành trình tình yêu phải kết thúc dang dở, lỡ mối nhân duyên. Và chính sức mạnh của niềm tin sẽ giúp các cặp đôi đến được bến bờ hạnh phúc dù cho thử thách ra sao. Và chỉ khi đến được bến bờ con sóng mới thôi thao thức. Tình yêu đích thực luôn tin vào bến bờ hạnh phúc và luôn khao khát được đặt chân đến miền đất đó.

Mặc dù biết rằng khi yêu con người cần có niềm tin nhưng chúng ta vẫn luôn mang trong mình những dự cảm, lo âu đặc biệt là với tâm hồn nhạy cảm của người phụ nữ:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Dòng thời gian vẫn luôn chảy trôi không ngừng nghỉ một đi không bao giờ trở lại đối lập với sự hữu hạn của đời người, sự vô tình của cuộc đời với kiếp người ngắn ngủi. Cuộc đời rất dài nhưng rồi vẫn qua đi vì năm tháng vẫn tiếp diễn. vì thế nhiều khi tình yêu của con người không thể vượt qua nổi thời gian và sự tàn phai theo năm tháng. Chính vì thế mà người phụ nữ luôn lo âu về tương lai về tình yêu với những trăn trở băn khoăn là điều không thể nào tránh khỏi được. Thơ là tình yêu là định mệnh của Xuân Quỳnh, là mối dây ràng buộc nhà thơ, là động lực giúp Xuân Quỳnh vượt qua những trắc trở của cuộc đời. Thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn chinh phục mọi người từ nhiều thế hệ với những cảm xúc nồng nàn. Phong cách thơ từ đó cũng định hình và được in đậm trong bài thơ này, và cả đoạn thơ trên.

Kết thúc bài thơ là niềm tin, hi vọng, khát khao được vĩnh cửu hóa tình yêu của nhà thơ:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Ở đây làm người đọc liên tưởng đến câu chuyện cô nàng tiên cá muốn trở thành bọt biển để cứu sống người mình yêu. Trong đoạn thơ trên khát vọng muốn vĩnh hằng tình yêu được thể hiện rất rõ qua từ ‘trăm con sóng’ không thể nào kể xiết. Khát vọng ấy cũng là muốn hòa nhập vào biển lớn tình yêu để trở thành một tình yêu lâu bền và trường tồn.

Trước Xuân Quỳnh đã có không ít những nhà thơ nữ viết về tình yêu nhưng hiếm có ai dám bày tỏ trực tiếp và mãnh liệt như Xuân Quỳnh. Dám nói thật lòng mình, điều đó chứng tỏ nhà thơ không những có niềm tin vào cuộc đời mà còn vững tin ở chính bản thân mình. Con sóng Xuân Quỳnh dẫu có tan ra thành trăm con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu, giữ biển lớn cuộc đời thì vẫn cứ là con sóng Xuân Quỳnh vỗ mãi đến ngàn năm.

Trong mối tương quan của bền chặt với con người, “ Sóng” của Xuân Quỳnh còn là suy ngẫm tâm tư rất riêng của nhà thơ giãi bày với cuộc đời để từ đó nhận ra một tâm hồn thơ của nữ sĩ cá tính. Bài thơ đã vượt ra không khí của hiện thực chiến tranh, vượt qua cái chết và khổ đau để ca ngợi sự sống vĩnh cửu của tình yêu, tạo thêm một nét đáng yêu của con người thời đại chống Mĩ biết yêu thương chung thủy và tìm ra lẽ sống tốt đẹp trên cơ sở của sự hài hòa những quan hệ riêng chung.

Ba khổ thơ cuối khép lại toàn bài thơ nhưng lại mở ra trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ về tình yêu, về những cảm xúc, tâm trạng của người con gái trong tình yêu. Nhịp điệu tâm hồn của người con gái được biểu hiện qua nhịp điệu của những con sóng. Từ đó cũng đã thể hiện phong cách thơ Xuân Quỳnh vừa tinh tế, nhạy cảm, vừa táo bạo mãnh liệt trong tình yêu. Tình yêu vẫn luôn là một ẩn bí hấp dẫn bất cứ một nghệ sĩ nào ghé qua mảnh đất ấy và khi Xuân Quỳnh đặt chân đến đã để lại một bản lĩnh, một tinh thần độc đáo, riêng biệt.

Phân tích Sóng khổ 7 8 9 – Mẫu 3

“Vì thích thú, làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Vì uất ức, khi mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi quyết phải sống, mà sống tức là phải viết”. Chính bởi luôn tâm niệm như vậy nên Xuân Quỳnh đã sáng tạo và đem đến cho người đọc rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó có bài thơ “Sóng”. Ba khổ thơ cuối của bài được coi là những dòng thơ chứa chan cảm xúc, nghĩ suy của người con gái trong tình yêu, lưu lại trong tâm hồn người đọc nhiều dư âm cảm xúc mãnh liệt.

Xuân Quỳnh là một nhà thơ mồ côi mẹ sớm, phải sống với bà từ nhỏ. Có lẽ vì thế trong thơ nữ sĩ luôn thường trực một niềm khát khao yêu thương và sự thiết tha hạnh phúc gia đình. Rời bỏ nghề diễn viên múa trong tiếc nuối của người hâm mộ, Xuân Quỳnh đã lưu dấu ấn cá nhân mình trong trái tim người đọc với một vai trò mới – một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Say mê, đắm mình trong thơ ca, nữ sĩ coi thơ là sự sống, là tình yêu, là toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời mình. Một cách tài hoa và đầy tinh tế, nhà thơ đã gửi tiếng lòng của một tâm hồn giàu trắc ẩn, táo bạo nhưng cũng rất mực đằm thắm vào những trang thơ. “Sóng” là một bài thơ nổi bật của nhà thơ, được viết năm 1967 trong chuyến đi thực tế Xuân Quỳnh đến biển Diêm Điền, Thái Bình. Những cảm xúc dạt dào, những nghĩ suy sâu lắng nhà thơ gửi vào những câu thơ, hình ảnh trong ba khổ thơ cuối bài đã thực sự để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng.

Sau khi phác họa hình tượng sóng cùng những quy luật của tình yêu, hành trình tìm kiếm nguồn cội hay những sắc thái của tình yêu, nhà thơ Xuân Quỳnh tiếp tục thể hiện suy nghĩ của mình về nỗi nhớ, sự thủy chung và khát vọng trong tình yêu qua hình tượng sóng ở ba khổ thơ cuối bài. Khổ thơ thứ bảy và tám nhà thơ nói đến niềm tin và dự cảm âu lo về tình yêu trong trái tim người con gái:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Đì cùng với niềm tin mãnh liệt là những dư vang của một dự cảm đầy lo âu ngổn ngang trong tâm trí người con gái. Cặp quan hệ từ “tuy..vẫn”, “dẫu…vẫn” như trầm xuống, như lắng lại trong một niềm suy tư xen lẫn cảm giác ngậm ngùi. Hình ảnh thơ trong đoạn cũng khẳng định: giống như cuộc đời bao la chẳng có gì là vĩnh cửu ngoài kia, tình yêu trong trái tim con người cũng chỉ là một thoáng phù vân dễ đến nhưng cũng dễ tan biến. Chính bởi vậy mà khi còn đang độ thanh xuân trẻ tuổi dại lòng, Xuân Quỳnh đã từng gửi những suy tư của bản thân vào những câu thơ: “Nhưng tôi biết mùa xuân rồi sẽ qua/ Hôm nay non mai cỏ sẽ già”. Ý thơ Xuân Quỳnh ở đây như có sự gặp gỡ cảm xúc thơ trong “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần gặp lại”

Từ yêu, người con gái bỗng có những lo âu, dự cảm về sự bền lâu của tình yêu. Đó dường như cũng là một biểu hiện của trái tim đang yêu tha thiết, nồng nàn.

Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ là những khát vọng của người con gái trong tình yêu được nhà thơ gửi gắm qua hình tượng sóng:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Khát vọng “tan ra” ở đây có lẽ chính là khát khao cháy bỏng được hóa thân vào sóng để tồn tại trong cái vô cùng của không gian biển cả bao la và thời gian vĩnh hằng của vũ trụ. Nhà thơ khiến ta cảm tưởng như người con gái, hay cũng chính là tâm tư nhà thơ, đang khát khao được vĩnh viễn hóa tình yêu, để dùng tình yêu thiêng liêng, đẹp đẽ để nối dài cái hữu hạn, cái ngắn ngủi của một đời người.

Xuân Quỳnh đã phác họa ra một hình tượng sóng mang nhiều ý nghĩa xuyên suốt bài thơ để gửi gắm những ý niệm sâu xa, cảm xúc mãnh liệt của bản thân khi nghĩ về tình yêu. Ba khổ thơ cuối bài nhà thơ đã thực sự để lại trong lòng người nhiều ấn tượng với hình ảnh sóng đi cùng với nỗi lo âu, niềm tin và khát vọng của tâm hồn người con gái khi yêu. Ba khổ thơ đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm cũng như khẳng định được vị trí của Xuân Quỳnh trong làng thơ ca hiện đại Việt Nam.

Phân tích Sóng khổ 7, 8, 9 – Mẫu 4

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là một tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Ngoài những tác phẩm đã trở thành ca khúc bất tử như “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”…thì “Sóng” cũng là bài thơ về tình yêu có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc. “Sóng” không chỉ thể hiện những nét tương đồng, những chiều dài của nỗi nhớ, những băn khoăn trong tình yêu mà còn thể hiện những suy tư lo âu trăn trở trước cuộc đời và khát vọng tình yêu, những nỗi niềm khát vọng ấy được thể hiện rõ nét trong đoạn thơ sau:

“Ở ngoài kia đại dương

Để ngàn năm còn vỗ”

Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác tại biển Diêm Điền, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển cũng chính là con sóng lòng đang khát khao tình yêu. Bài thơ có hai hình tượng song hành “sóng” và “em”

Để có được tình yêu vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt vừa trong sáng thủy chung thì con sóng phải vượt qua đại dương mênh mông để đến với “bờ anh”

“Ở ngoài kia đại dương
….
Dù muôn vời cách trở”

Người phụ nữ đang yêu tin vào tình yêu sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù trải qua bao khó khăn thử thách. Đúng vậy! Một tình yêu chân chính, đích thực, một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu sẽ giúp họ vượt qua bao sóng gió cuộc đời cập đến bến bờ tương lai của hạnh phúc. Hãy nhìn vào hiện thực như trở thành quy luật, dù gió có ở thật xa nơi bãi bờ thì nó cũng sẽ tìm đến những bãi cát dài dù trải qua thật nhiều khó khăn, cũng như vậy! tình yêu của em dù gặp biết bao trở ngại em vẫn vượt qua để đến bên anh, đến một mái ấm gia đình như Chế Lan Viên từng viết:

“Cây nối đầu cây chạy đến em
Đếm cây hoài lại mọc cây thêm
Tình anh làm cái cây sau chót
Về tới quê em mọc tận thềm”

Cũng như vậy ba khổ thơ với nỗi nhớ, sự trăn trở và tấm lòng chung thủy son sắt cùng với phép lặp,nhân hóa, ẩn dụ,sử dụng cách nói ngược với những hình ảnh đối lập đã khẳng định niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, tình yêu đẹp sẽ vượt qua mọi thử thách. Tha thiết với tình yêu, khao khát sống mãi trường tồn với tình yêu nhà thơ đã có chút khắc khoải, lo âu về sự tan chảy của thời gian, đời người cũng mong manh và hạnh phúc của trái tim yêu Xuân Quỳnh cũng vậy. Nhưng nhớ da diết, yêu thương nồng nàn luôn đồng hành với nỗi lo âu khắc khoải:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Đời người trăm năm ngỡ dài thăm thẳm nhưng con tàu thời gian cứ vun vút lao đi không chờ đợi chúng ta. Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đầy nhạy cảm nhà thơ nhận ra vũ trụ mãi vĩnh hằng – cuộc đời con người thì hữu hạn

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua”

Lo lắng tình yêu đổ vỡ, phai nhạt, khi đứng trước sự chảy trôi của thời gian. Nhưng người phụ nữ ấy vẫn luôn tin vào tương lai của tình yêu, vào ý nghĩa đích thực của tình yêu

“Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Niềm tin, khát khao được sống mãi với tình yêu,người con gái ấy khát khao hóa thân vĩnh hằng vào tình yêu bất tử. Người phụ nữ nhỏ bé đã muốn

Làm sao được tan ra.

Để ngàn năm còn vỗ

Đó là khát vọng được tan ra thành trăm con sóng lớn nhỏ hòa vào biển lớn để vỗ mãi ngàn năm khúc hát tình yêu. Khát khao bất tử hóa trong tình yêu nhưng trái tim nhà thơ không vị kỷ, tầm thường, nhỏ nhen cho riêng mình mà thật lớn lao, cao thượng. Nhà thơ đã hòa niềm hạnh phúc của riêng mình trong niềm hạnh phúc của cuộc đời rộng lớn, cái riêng tồn tại trong cái ta chung, bao la, rộng lớn ấy đã trở thành vĩnh cửu. Đó là một trái tim yêu rất Xuân Quỳnh

“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai cũng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

Lúc muốn tan ra thành sóng, lúc muốn trở về đúng nghĩa trái tim. Xoay trở mọi hướng, ao ước bao điều, trái tim yêu Xuân Quỳnh vẫn hướng về mục đích duy nhất: tình yêu vĩnh cửu. Ao ước tan ra thành trăm con sóng nhỏ đâu chỉ thỏa khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu mà còn là cháy hết mình, dân hiến hết mình của nữ sĩ.

Đoạn thơ trên trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, tác giả không chỉ thành công ở nội dung mà còn thành công ở mặt nghệ thuật trong việc sử dụng thể thơ năm chữ truyền thống, cách ngắt nhịp gieo vần độc đáo, giàu sức liên tưởng, xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết

Qua những suy tư, lo âu khát vọng trong tình yêu nói riêng và qua bài thơ Sóng nói chung, đã cho người đọc một cảm nhận mới mẻ và sâu sắc hơn trong tình yêu. Nó vượt qua mọi giới hạn, mọi quy luật để tồn tại mãi mãi vĩnh hằng trong tình yêu bất tử. Đó chính là giá trị nhân văn lớn lao mà Xuân Quỳnh để lại cho đọc giả mọi thế hệ qua bài thơ Sóng.

Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng – Mẫu 5

Nhà thơ Huy Cận đã từng nói, khi đi cạnh bờ biển, thấy có cảm giác xao động đến kì lạ trong con người. Với ông, cái xao động kì lạ đó chính là cảm giác về sự lớn lao của con người khi đi dọc bờ biển, tuy mênh mông ấy, nhưng con người vẫn như làm chủ được thiên nhiên, biển cả. Còn với Xuân Quỳnh – người con gái xứ lụa Hà Đông, thì cái ngợm ngợm khi đi dọc bờ biển bao la, với những con sóng thi nhau tấp vào bờ, lại là sóng tình, sóng trong lòng người con gái đang yêu nói chung và tác giả nói riêng. Một tình yêu với những nỗi trăn trở, khát khao được hòa quyện trong cái tình cảm bao la ấy.

Nếu Lưu Quang Vũ được coi là kịch tác gia tiêu biểu, tiên phong trong việc giải phẫu ung nhọt của con người về lòng tham sau khi chiến tranh kết thúc,thì Xuân Quỳnh, thơ của Xuân Quỳnh lại mang khát khao yêu thương, khát khao là thế nhưng vẫn đầy trắc ẩn. Ba khổ thơ cuối trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người con gái đang yêu khát khao được yêu thương, gắn bó.

Với chủ đề tình yêu, đã không ít bài thơ sử dụng những vần thơ để nói lên tiếng lòng nhớ thương da diết

“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi tới non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”

(Chinh phụ ngâm khúc)

Hay:

“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai”

Đều là nỗi nhớ thương trong tình yêu, nhưng mỗi nhà thơ có một cách thể hiện nỗi lòng mình rất khác nhau. Chiếc khăn tay, chiếc vòng kỉ niệm hay những bức thư tình, với Xuân Quỳnh, bà sử dụng hình ảnh ngọn sóng để diễn tả tình yêu của mình, tiếng sóng như tiếng lòng lúc “dữ dội” lúc “dịu êm” lúc “ồn ào” khi “lặng lẽ”

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn ngàn cách trở”

Em hướng về anh, như sóng hướng vào bờ. Như ngay trước mắt ta, hình ảnh người con gái đang đứng bên bờ biển, nhỏ bé nhưng trong lòng đầy nỗi khắc khoải mong chờ. Khoảng cách cũng là một trở ngại trong tình yêu, nhưng với Xuân Quỳnh, dù có xa cách nhưng trong lòng luôn có một niềm tin, không hề “xa mặt mà cách lòng”. Tuy trong lòng vẫn mang niềm tin đó, sự chờ đợi là thế, nhưng dường như trong lòng người con gái đang đứng kia vẫn có một chút hờn trách người mình yêu, nhưng không hề ích kỉ, hờn trách là thế, nhưng trong lòng vẫn tràn đầy niềm tin và sự mong chờ. Dù xa xôi bao nhiêu, khoảng cách dù lớn như thế nào, thì sóng vẫn cứ mãi tấp vào bờ, bờ sinh ra là để cho sóng vỗ, như bến đậu bình yên. Tự như một lời trách móc nhẹ nhàng “Trăm ngàn con sóng – Con nào chẳng tới bờ” còn anh thì sao ? Trong tình yêu, một chút nhớ, một chút thương, một chút dỗi hờn làm cho cuộc sống thêm phần thi vị. Xuân Quỳnh mượn hình ảnh sóng để nói lên tâm trạng mình, đây không chỉ là con sóng vô tri vô giác nữa, mà đã trở thành sóng tình, sóng trong lòng tác giả, sóng của người con gái đang yêu. Sóng và bờ giờ đây như có thể, nó được thổi hồn, mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu. Sóng không còn là “Sóng gợn Trường Giang … “trong thơ Huy Cận, mà đã thành sóng tình, sục sôi trong lòng người đang yêu. Qua hình ảnh bài thơ, ta thấy một Xuân Quỳnh trong tình yêu, vừa táo bạo chủ động, vừa đằm thắm thủy chung, một nét đẹp rất truyền thống của người dân Việt Nam. Đã có bao cuộc tình, dù khó khăn cách trở như Thúy Kiều – Kim Trọng, họ phải xa cách, gặp bao nhiêu khó khăn trong tình yêu, nhưng cuối cùng họ vẫn vượt qua, và tìm được nhau, như “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ “, Xuân Quỳnh luôn tin vào cái gì đó, như sức mạnh vô hình trong tình yêu. Không gian là vậy, tác giả lại trăn trở trước cuồng quay của thời gian

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn trôi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn trôi về xa”

Câu thơ thể hiện một nét rất nữ tính trong tình yêu. Cuộc đời tuy dài thế, nhưng dài là bao lâu ? Thời gian thi vẫn hàng ngày trôi qua. Cuộc đời tuy dài thế, biển kia tuy rông đến mấy, nhưng cũng làm sao níu kéo được thời gian, thanh xuân vẫn dần trôi qua, làm sao có thể giữ lại. Đây là nỗi trăn trở của Xuân Quỳnh, cũng là tiếng lòng của bao người con gái đang yêu khác. Mặc dù dẫu cho yêu hết mình, một lòng son sắc, nhưng cuộc đời thì ngắn ngủi làm sao sống mãi trong tình yêu. Vì thế Xuân Quỳnh đã khao khát

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Để ngàn năm còn vỗ
Giữa biển lớn tình yêu”

Khao khát đó lớn dần, như muốn phá tan không gian và thời gian, muốn được tan ra hòa quyện trong tình yêu đó. Không chờ đợi đối phương đáp trả, vẫn mãnh liệt, ào ạt tình thương. Người ta có nói, trong tình yêu lắm ích kỷ, hẹp hòi, nhưng với Xuân Quỳnh không hề có một sự ích kỷ hẹp hòi nào, mốt sự hy sinh, một khao khát được hòa quyện vào biển lớn tình yêu. Khao khát ấy thật hợp lý khi họ đang đắm chìm trong tình yêu thương. Xuân Quỳnh hiểu được, chỉ như vậy thì tình yêu mới bền vững tồn tại mãi mới thời gian.

Một Xuân Quỳnh nhẹ nhàng đằm thắm, một Xuân Quỳnh khiến người khác nể phục khi trong tình yêu, dám yêu hết mình, dám hy sinh, dám khao khát và mơ mộng. Qua bài thơ Sóng nói chung và ba khổ thơ cuối bài thơ nói riêng, ta thấy một Xuân Quỳnh đầy chất thơ lãng mạn, một nhà thơ tài năng trong phong trào thơ ca của kho tàng dân tộc Việt Nam. Với giọng điệu nhẹ nhàng, lúc mãnh liệt, đôi khi sâu lắng , ba khổ thơ cuối đã cho ta thấy, một tâm hồn trăn trở, khao khát yêu thương gắn bó. Một tình yêu đẹp, lãng mạn, sự hy sinh trong tình yêu của tác giả.

Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng – Mẫu 6

Có những vần thơ tình đẹp như thế. Như giọng chim ríu rít đa điêu đa thanh giữa mùa xuân. Có những vần thơ nói lên niềm tin và mong ước về tình yêu hạnh phúc đẹp như thế:

“Cuộc đời tuy dài thế

Để ngàn năm còn vỗ”

Đây là hai khổ thơ cuối bài thơ ngũ ngôn trường một bài thơ tình tuyệt tác viết về nỗi khát vọng tình yêu của thiếu nữ.

Từ thương nhớ đợi chờ: “Cả trong mơ còn thức” tâm hồn thiếu nữ ánh lên một niềm tin mãnh liệt trong tình yêu. “Năm tháng” nhất định sẽ “đi qua” cuộc đời “dài” . “Mây” trên bầu trời nhất định sẽ vượt qua biển “rộng” để “bay xa”. Thời gian dài dằng dặng gian rộng mênh mông, cũng như tình yêu là vô cùng mãnh liệt:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”.

Câu 1, 2 song hành đối xứng với câu 3, 4 làm cho giọng thơ, âm điệu thơ tha thiết, ngọt ngào. Cấu trúc chính – phụ được sử dụng đắc địa: “tuy… vẫn… “, “dẫu… vẫn”, ý thơ được khẳng định mạnh mẽ. Điệp từ “vẫn” biểu lộ một niềm tin về tình yêu: “Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. “Năm tháng” và “mây” là 2 ẩn dụ nói về tình yêu, một tình yêu đẹp hướng tới hạnh phúc.

Tình yêu như con sóng trên biển: “Dữ dội êm – Ồn ào và lặng”. Có lúc “em” lại cảm thấy cô đơn trong xa cách:

“Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nói
Nhưng bây giờ chỉ có sóng và em”.

(“Chỉ có sóng và em”)

Lại có lúc tràn ngập nỗi nhớ khắc khoải chờ mong:

“Còn hiện tại của em là nỗi nhớ
Thời gian ơi sao không đổi sắc màu”.

(“Thời gian trắng”)

Còn ở khổ thơ này là niềm tin, một niềm tin mãnh liệt: Con thuyền tình nhất định cập bến bờ hạnh phúc. Nữ sĩ đã lấy độ dài của thời gian, chiều rộng của không gian để đo niềm tin về tình yêu hạnh phúc. Các từ ngữ: “vẫn đi qua”, “vẫn bay về xa” là sự kết đọng “đinh ninh lời thề” của một tình yêu đẹp.

Khổ cuối bài thơ là lời nguyện cầu của em về một tình yêu thủy chung bền vững. Hình tượng sóng hội tụ bao cảm xúc nồng hậu:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.

Hai tiếng “làm sao” gợi lên một niềm mong ước cháy bỏng tâm hồn “em”. Sóng trên đại dương trường tồn bất diệt. “Trăm con sóng nhỏ” rì rào vỗ, xôn xao reo “giữa biển lớn tình yêu” mang vẻ đẹp nhân văn cao quý của tình yêu. Đó là niềm ước mong của thiếu nữ được sống trong hạnh phúc bền vững như những con sóng vỗ mãi trên “biển lớn tình yêu” đến ngàn năm sau. Con số “ngàn năm”, “nghìn năm”, hơn một lần đã từng làm ta xúc động:

“Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề”

“Thề non nước”

Tản Đà

Tình yêu không hề làm cho em trở nên nhỏ bé ích kỷ; trái lại tình yêu của em sẽ mãi mãi chan hòa trong tình thương của đồng bào, xã hội. Một ý tưởng rất đẹp, rất mới trong tình yêu. Một trái tim đa tình và nhân hậu biết bao!

Nói đến thơ là nói đến nhạc điệu, vần điệu. Đoạn thơ trên đây có điệu thơ nhẹ nhàng, đằm thắm. Vần thơ phong phú, nhạc điệu dư ba. Sự phối hợp giữa vần bằng và vấn trắc, giữa vần liền và vần cách rất tinh tế, nhịp nhàng. Từ “qua” bắt vần với “xa” và “ra”; chữ “nhỡ” hiệp vẫn với “vỗ”, đọc lên nghe rất thú vị.

Đoạn thơ hội tụ bão vẻ đẹp. Một ý tưởng đẹp: niềm tin về tình yêu hạnh phúc. Lời thơ đẹp: thanh tao, ý vị. Giọng thơ nồng nàn, ngọt ngào. Hình tượng “con sóng nhỏ” và “biển lớn tình yêu” rất sáng tạo. Đoạn thơ mang vẻ đẹp nhân văn sáng giá

Phân tích ba khổ cuối bài thơ Sóng – Mẫu 7

Nhắc đến tên tuổi của nhà thơ Xuân Quỳnh ta biết đến “chị nổi lên trên dàn đồng ca chung thời kì lửa cháy”, chị nổi lên như một nốt nhạc tươi xanh trong nền văn chương Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cùng với những nhà thơ như: Trần Mạnh Hảo, Trần Đăng Khoa, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Nguyễn Khoa Điềm… Xuân Quỳnh trưởng thành trong nền văn chương thời kì kháng chiến. Thời kì kháng chiến chống Mỹ là giai đoạn mà chị viết sung sức, viết đều tay và để lại rất nhiều bài thơ hay trên dòng chảy của nền văn học Việt Nam như bài “Tự hát” “Hoa cỏ may” “Hoa dọc chiến hào”… Nếu ta theo sát sự nghiệp sáng tác của Xuân Quỳnh ta sẽ nhận thấy điểm mạnh trong thơ ca của Xuân Quỳnh đó là nỗi niềm âu lo vấp vỏng của người con gái khi đứng trước hạnh phúc đời thường. “Sóng” là một bài thơ như thế, được viết khi tác giả đứng trước biển Diêm Điền. Viết về tâm tư của người con gái, mang khát vọng xô tới bờ anh. Trở lại với Xuân Diệu, Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” là một hoàng tử của tình yêu, là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới trưởng thành trước năm 1945. Là nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất đến nền thơ ca Việt Nam. Đặc biệt là thơ mới. Nhà thơ Xuân Diệu là nhà thơ bị ám ảnh bởi bước đi của thời gian, là một nhà thơ bị ảnh hưởng nhiều bởi thơ ca phương Tây. Một trong số tác phẩm tiêu biểu của Xuân Diệu phải kể đến đó là bài thơ “Vội vàng” được rút ra từ tập “Thơ thơ” , một bông hoa đầu mùa đầy hương sắc của Xuân Diệu. Mặc dù Xuân Quỳnh và Xuân Diệu có những sở trường và điểm yếu khác nhau, họ có phong cách riêng. Nhưng họ đồng điệu khi viết về khát vọng của tuổi trẻ và tình yêu.

Bài thơ Sóng gồm 9 khổ thơ, mỗi khổ mang cho mình một vẻ đẹp rất riêng cũng như tình cảm của người con gái trong tình yêu. Trong thơ ca xưa thì sóng luôn luôn tượng trưng cho nỗi lòng của người con trai. Như trong bài Biển của Xuân Diệu đã từng viết:

“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Hôn đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt”

Còn trong bài thơ Sóng, lần đầu tiên ta thấy, người chủ động trong tình yêu lại là con gái .

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Ở khổ thơ này, nếu sóng tượng trưng cho tình cảm của người con gái, còn bờ là tượng trưng cho tình cảm người con trai thì ở đây đại dương là tượng trưng cho xã hội rộng lớn mênh mông bao la, hàng triệu hàng tỷ người phụ nữ đang yêu và mong muốn được yêu. Khát vọng của tình yêu đó là niềm tin của nhà thơ vào tình yêu. Mặc dù khi nhắc về tình yêu, nhà thơ Xuân Quỳnh đã trải qua rất nhiều biến cố và thăng trầm trong tình cảm. nhưng chị vẫn có niềm tin vững chắc vào tình yêu, rồi ai hoặc ai đi chăng nữa, cũng sẽ tìm được một nửa tình yêu cho đời mình. Trong cuộc sống hay trong tình yêu cũng vậy, rõ ràng không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng và đã là những người thực lòng yêu nhau thì họ sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn và thử thách. Đó chính là vẻ đẹp của khổ thơ thứ 7.

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Thơ là tiếng nói cảm xúc, là tiếng nói của con tim. Khổ thơ thứ 8 đều là những câu thơ, những trải nghiệm sống, những triết lý sống, những câu thơ rất đỗi bình thường, giản dị. Và nó đều là những câu thơ rất mộc mạc. Nói về điều gì? Về những sự thật, những hiển nhiên trong đời. Tình yêu xuất hiện trong mỗi chúng ta như những điều rất hiển nhiên, rất đỗi bình thường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói trong bản Tuyên ngôn độc lập: “Mọi người sinh ra đều có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc và đây là những quyền không ai có thể xâm phạm được.”. Hoặc chúng ta có thể biết đến thơ ca của Xuân Diệu, ông đã từng nói rằng:

“Làm sao sống được mà không yêu,
Không nhớ không thương một kẻ nào?”

Ở đây ta thấy, tình yêu xuất hiện một cách rất đỗi tự nhiên, đỗi chân thành, giản dị, mộc mạc và bình thường. Đó là những mưu cầu rất đỗi bình thường của con người.

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Đến với khổ 9, đó là khi sóng đến với bờ anh. Bài thơ “Sóng” là một cuộc hành trình của sóng đến với bờ anh. Và khi đến với bờ anh thì khát vọng của nó đó là được “tan ra” và hòa vào nhau để trở thành là một. Để tình yêu ấy trở nên trường tồn và bất tử với thời gian. Thời gian trôi qua, khiến chúng ta già đi nhưng nó không có nghĩa khiến tình yêu trở nên nhàm chán. Mà tình yêu của ta sẽ trường tồn, bất tử với thời gian dù cuộc đời con người là hữu hạn. Thế nhưng, tình yêu chúng ta dành cho nhau sẽ là vô hạn đó là niềm khát khao được cháy hết mình và sống hết mình cho tình yêu.

Trở lại với tác phẩm Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu, những câu thơ cuối khác hẳn với câu thơ đầu.

“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Ở những câu thơ đầu, nhân xưng của tác giả là tôi . “Tôi muốn tắt nắng” “Tôi muốn buộc gió” một cái tôi đầy bản lĩnh. Tắt nắng để những gam màu cuộc sống không phai nhạt . Buộc gió để giữ lại những hương thơm hương sắc của cuộc đời, giữ lại những gì đẹp nhất ,đó là ước muốn đoạt lấy quyền uy của vũ trụ. Đó chính là Xuân Diệu – ông vua của mảng thơ tình. Là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Thế mà, đến những câu thơ này ta lại bắt gặp đó là từ cái tôi của cá nhân. Trong bài thơ “Hy Mã Lạp Sơn” của Xuân Quỳnh:

“Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất.
Không có chi bè bạn nối cùng ta”

Phân tích 3 khổ cuối bài thơ Sóng – Mẫu 8

Xuân Quỳnh là một trong những cây bút trẻ xuất sắc nhất trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhà thơ đi sâu vào khai phá sức mạnh của đời sống nội tâm, kỉ niệm tuổi thơ, tình yêu, gia đình, hiện thực đời sống và những sự kiện xã hội như một bối cảnh cho tâm trạng. Do vậy thơ Xuân Quỳnh có xu hướng hướng nội, rất tâm trạng cá nhân nhưng không phải một thứ tháp ngà, xa lạ với đời sống. Bài thơ Sóng thể hiện sâu sắc phong cách thơ ấy. Nếu ở đầu bài thơ, nữ sĩ tìm cách lí giải ngọn nguồn của tình yêu thì đến khổ thơ 7, nhà thơ trở về với những rung động vĩnh hằng của con tim, làm toát lên vẻ đẹp hồn hậu của người phụ nữ trong tình yêu hết sức nhuần nhị.

Nếu sự sống của tình yêu là nỗi nhớ và sự thuỷ chung thì để vượt qua chông gai thử thách, tình yêu lại cần đến niềm tin; niềm tin chính là đôi cánh để giúp tình yêu vượt qua “muôn vời cách trở”: Hai câu thơ đầu Xuân Quỳnh lại quay về đối diện với biển cả, nhưng lần này không phải là để chất vấn mình về nguồn gốc của sóng, gió hay cội nguồn của tình yêu nữa mà chính là để cất lên niềm tin:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó”

Hai chữ “đại dương” gợi lên sự vô cùng vô tận của biển cả mênh mông, của vũ trụ bao la. Cách nói “trăm ngàn” là ước lượng hoá, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: sóng dù “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”; là “dữ dội, ồn ào” hay “dịu êm, lặng lẽ”, dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc hành trình tìm về bến bờ quen thuộc. Hai câu thơ sau là sự khẳng định:

“Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”; câu sau như một điều kiện “dù muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế. Khi ta muốn khẳng định điều gì đó là chắc chắn thì ta thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau. Điều này làm cho ý thơ bỗng trở nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời những khó khăn và trở ngại, dù bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ hướng đến bờ, vẫn vượt qua không gian, thời gian để đến với bờ. Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến được với người mình yêu.

Trật tự các câu thơ trong khổ thơ này, đặc biệt là hai câu thơ cuối có thể đảo vị trí cho nhau: “dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ”; nhưng không làm mất đi kết cấu của khổ thơ, cũng như không làm mất đi nội dung của khổ thơ – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi. Điều này thêm một lần Xuân Quỳnh khẳng định: với người phụ nữ khi yêu, một khi đã lấy “phương anh” làm hướng để quy về thì dù vật đổi sao dời cũng không thể nào làm em thay đổi. Có lẽ vì vậy mà trong đời thường Xuân Quỳnh luôn lấy niềm tin như cứu cánh của đời mình, chị đã bám vào niềm tin mà đứng dậy sau những đổ vỡ, lấy tin yêu vá lại trái tim đầy tổn thương của chính mình để tiếp tục “Tự hát” với đời:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

Niềm tin vào tình yêu chính là sức mạnh, là động lực để con người vượt qua những nắng nôi, giông bão của cuộc đời. Trong bài “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh cũng từng hát lên những ca từ lạc quan tin yêu như thế:

“Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ”

“Hàng cây”, “dòng sông” phải trải qua “bão gió, thác lũ” nhưng cuối cùng thì tất cả cũng “đã qua”, “đã yên” như tình yêu của anh và em với “muôn vời cách trở” nhưng cuối cùng vẫn trọn vẹn đường yêu. Vâng! Chính niềm tin ấy trong tình yêu của Xuân Quỳnh đã đưa chị đến với đời để cho tiếng thơ đi vào cõi bất tử.

Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế: “Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”. Quả thật như thế , mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ nhưng ở khổ thơ này lại đầy ắp những âu lo, dự cảm.

Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và cái vô hạn (thời gian và biển lớn):

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

“Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu.

Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.

Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ. Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ”

Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hòa mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.

“Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai – Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uytman). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.

Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:

“Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).

Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở “chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc.

Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hòa vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.

Thơ Xuân Quỳnh giản dị nhưng không bao giờ cũ vì nó cũng có triết lí. Đó là thứ triết lí của thi ca, thứ triết lí đôn hậu của một người phụ nữ làm thơ. Xuân Quỳnh nói chuyện tình yêu, chuyện cái chết, chuyện được, chuyện mất một cách rất giản dị mà thấu nhập và đọng mãi lòng người.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Check Also
Close