Học TậpLớp 12

Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt của Kim Lân

Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân mang đến dàn ý chi tiết và 4 bài văn mẫu siêu hay, ấn tượng nhất. Qua 4 bài phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt giúp các bạn học sinh lớp 12 có nhiều ý mới, ý hay, ý đẹp khi làm văn.

Vợ nhặt cho ta thấy rằng người dân lao động vốn có bản chất lành mạnh, luôn luôn hướng về ánh sáng với một niềm tin bất diệt. Dù hoàn cảnh có hiểm nghèo bi thảm tuyệt vọng đến đâu, dù có kề bên cái chết, vẫn khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình. Vậy dưới đây là 4 bài phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt, mời các bạn cùng theo dõi.

Mục lục

Dàn ý phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt

1. Mở bài

Bạn đang xem: Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt của Kim Lân

– Đề tài người nông dân trước cách mạng.

– Sơ lược về Kim Lân và giá trị hiện thực trong Vợ nhặt.

2. Thân bài:

a. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà cụ Tứ.

– Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe.

– Thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người.

– Cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đăm đăm nỗi lo không lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.

b. Xóm ngụ cư:

– Bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

– Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”

=> Nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng.

c. Bức tranh sinh hoạt gia đình Tràng:

– “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”.

– Hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn ứ nơi cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống.

– Trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.

3. Kết bài:

Khái quát lại vấn đề

Giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt – Mẫu 1

Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân đưa người đọc tới với những số phận của con người bên vực thẳm của nạn đói lịch sử nước ta năm 1945, nạn đói này đã làm chết hai triệu người dân, trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người dân.

Nhưng trong tác phẩm của mình Kim Lân đã viết một câu nói vô cùng sâu sắc rằng “Những người đói họ không đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”. Vợ nhặt Văn Đây là câu nói đầy tính nhân văn, nhân đạo của tác giả dành cho đứa con tinh thần của mình.

Chính câu nói của tác giả Kim Lân giúp chúng ta phải đi sâu tìm hiểu kỹ hơn về giá trị hiện thực sâu sắc nhân văn của tác phẩm Vợ nhặt để giải đáp cho những thắc mắc của chúng về số phận những người nông dân khốn khổ trong thời kỳ phong kiến nửa thực dân như thế nào.

Nhà văn Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, ông là người vô cùng hiểu bản chất, cũng như thói quen của người nông dân. Ông cũng là người đã trải qua nạn đói khủng khiếp này nên chỉ có nhà văn là thấu cảm nỗi khốn khổ của người dân. Nói một cách khác Kim Lân chính là nhân chứng sống của lịch sử về một giai đoạn khó khăn bần hàn của dân tộc.

Thông qua tác phẩm Vợ nhặt của mình ông cũng muốn tố cáo tội ác của giặc và chế độ phong kiến. Chính chế độ xã hội tàn ác, chà đạp lên số phận những người dân lao động khốn khổ, bóc lột, vơ vét tới tận cùng khiến cho người dân không còn đường sống, khi con giun xéo mãi cũng quằn, họ buộc phải đứng lên, vùng dậy đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc cho mình.

Trong tác phẩm của mình nhà văn Kim Lân đã đặt câu chuyện trong một bức tranh khái quát, thể hiện được đầy đủ được bối cảnh xã hội lúc đó. Kim Lân đã đặt những nhân vật của mình vào nạn đói khủng khiếp với những người nghèo khổ bồng bế dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”.

Những bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma, người chết như ngả rạ, sáng nào người đi làm đồng cũng nhìn thấy vài cái xác mới, thấy nằm còng queo bên đường, trong bầu không khí vẩn lên mùi xác người đang bốc mùi hôi thối.

Nạn đói nghèo khổ đã đã tràn đến xóm ngụ cư, nạn đói bủa vây xung quanh mọi gia đình số phận nông dân nghèo khổ. Nhân vật Tràng của chúng ta cũng không nằm ngoài quy luật đó. Anh sống cảnh mẹ góa con côi, nghèo khổ, lầm lũi, côi cút.

Bức tranh bối cảnh xã hội lúc đó người nông dân, đang ở bên bờ vực thẳm của sự sống và cái chết của nạn đói. Người chết nhiều hơn cả người sống, những người sống thì đi lại vật vờ như những thây ma. Cuộc sống lay lắt như ngọn đèn trước gió sống hôm nay không biết ngày mai sẽ ra sao.

Trong xóm ngụ cư toàn những người dân tứ xứ về ở chung những khuôn mặt hốc hác, gầy gò như bóng ma, cuộc sống đói khát, không nhà nào có đèn, có chút ánh sáng nào cả, chỉ có một bóng tối, ngồi ủ rũ trong xó đường, bất động như thây ma không nhúc nhích.

Trong gia đình Tràng sống cảnh mẹ góa con côi, Tràng làm nghề kéo xe, mẹ anh bà cụ Tứ đã già, không còn nhiều sức lao động chỉ có thể làm việc nhà, không kiếm ra tiền. Tràng cũng không giàu có con nhà danh gia vọng tộc, ngoại hình bên ngoài thì thô kệch, hai quai hàm bạnh ra, Bình thường một người như anh cu Tràng sẽ khó mà lấy được vợ nhưng trong bối cảnh nghèo khổ người chết như ngả rạ đó.

Anh cu Tràng lại dễ dàng nhặt được vợ như nhặt được món đồ từ ngoài đường mang về. Một tình huống truyện vô cùng độc đáo thể hiện sự tinh tế, phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của tác giả, khi mạng người chẳng khác nào một món đồ, một đồ vật rơi vãi ngoài đường. Nó quá rẻ rúm. Bởi cuộc sống nghèo khổ quá khiến cho người con gái, vợ anh cu Tràng cần một gia đình, cần một nơi nương tựa, một vòng tay ấm áp ở bên cạnh mình.

Thị dễ dàng nhận lời anh Tràng về làm vợ dù không có cưới xin, không có đăng ký kết hôn hay hai họ chứng kiến chúc phúc. Trong bối cảnh nghèo khổ ấy việc cưới vợ, gả chồng cũng khiến con người ta làm qua loa đại khái. Nhưng những số phận của hàng xóm những người xung quanh gia nhân vật chính của chúng ta cũng không khác gì. Những ngôi nhà rúm ró, nằm co ro trong bóng tối, cuộc sống của họ đều lay lắt như ngọn đèn trước gió, bị bóng tối nạn đói vây quanh. Sau đêm tân hôn, bữa ăn đầu tiên khiến người đọc xúc động, hình ảnh nồi cháo cám đã tái hiện hiện thực sâu sắc về nạn đói và số phận của những người nông dân nghèo khó.

Trong bữa cơm người ta nói tới những người dân phá kho thóc Nhật của Việt Minh, họ mơ ước tới cuộc sống mới, mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính nạn đói và những số phận người nông dân bi thảm là những nhân chứng sống làm nên tính hiện thực sâu sắc trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.

Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt – Mẫu 2

Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, nên ông đã dựng lên trong Vợ nhặt – một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét:

Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma và sau đó là ‘”người chết như ngả rạ”, “thây nằm còng queo bên đường”, không khí vẩn lên mùi gây của xác người”, rồi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt” và “tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya” Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.

Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: Ở xóm ngụ cư là ”những khuôn mặt hốc hác u tối” trong “cuộc sống đói khát”, “không nhà nào có ánh đèn, lửa”, đến cả trẻ con cũng “ngồi ủ rũ dưới những xó đất ; không buồn nhúc nhích”. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu áo quần rách như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên”… Số phận của họ có khác gì “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm ngổm những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”…

Có một hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Đoàn người khi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người như Tràng.

Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của những người đói và lá cờ cách mạng là những mặt chủ yếu nhất của hiện thực lúc bấy giờ được Kim Lân phản ánh bằng những nét bản chất đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm như chứng tích văn học về một sự kiện lịch sử không thể nào quên.

Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt – Mẫu 3

Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng trên văn đàn Việt Nam đã có rất nhiều những tác phẩm và những cây bút xuất sắc, nhưng ở mỗi một tác giả, tác phẩm ta lại thấy một khía cạnh riêng, mang tính cá nhân của người viết. Ví như Nguyễn Công Hoan là giọt nước mắt đau đớn, nỗi khốn khổ của người nông dân dưới những mẩu truyện ngắn cười ra nước mắt ví như Tinh thần thể dục hay Kép tư bền. Hay Ngô Tất Tố là nỗi đớn đau, xót xa cho những kiếp người cùng cực dưới nạn thuế má trong Tắt đèn. Hoặc một Nam Cao lạnh lùng, với hiện thực trần trụi đau đớn với kiếp sống đầy bi kịch của Chí Phèo.

Và rồi đến với Kim Lân, một tác giả có số lượng tác phẩm cực ít thế nhưng lại là một trong 10 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam với hai tác phẩm Làng và Vợ Nhặt. Thành công của Kim Lân đến từ sự khác biệt trong lối hành văn và cách tư duy, ông dùng cái hiện thực để làm nổi bật lên những cá tính và phẩm chất tốt đẹp của con người. Lấy tư tưởng nhân văn nhân đạo phát triển lên, không chỉ có tính phản ánh mà còn mở ra cho nhân vật của mình một lối thoát mới ấy là Cách mạng, thứ mà những nhà văn viết về đề tài này trước đó chưa khai mở được. Trong tác phẩm Vợ nhặt bức tranh hiện thực hiện lên dưới ngòi bút của Kim Lân bằng những câu văn nhẹ nhàng, nhưng vô cùng ám ảnh và u ám.

Bối cảnh trong Vợ nhặt là một bối cảnh rất đặc biệt, là giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà cụ Tứ. Người nông dân đầu tiên hiện lên ấy là Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe. Cái đói, cái khổ những năm tháng ấy khiến một anh con trai vốn sức vóc cũng trở nên tiều tụy, mệt mỏi “Tràng cúi đầu bước từng bước chậm chạp”, tàn tạ vô cùng. Còn thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người. Thị đã ở bên bờ vực của cái chết, nên thị phải chấp nhận mang trên mình cái danh người “vợ nhặt”, tựa như cọng rơm, cọng rác vứt đâu đó ngoài xó chợ. Cuối cùng là bà cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đáng lý ra nên ở nhà bồng cháu, bồng chắt, thế nhưng bà vẫn đăm đăm nỗi lo không lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.

Đó là nạn đói qua số phận ba nhân vật chính, nhưng nó còn khủng khiếp hơn khi người ta nhìn ra ngoài kia, nơi những con người của xóm ngụ cư đang đếm từng bước đến nghĩa địa. Có thể nói rằng chưa từng có một nhà văn nào lại có thể vẽ ra một bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh đến thế, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”, như tiếng vẫy gọi đầy ám ảnh của tử thần. Có thể nói rằng nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng. Bức tranh hiện thực của Kim Lân hiện lên tàn khốc đến nỗi con người ở đây dường như đã nhìn thấy cái chết của mình, và đang chậm rãi chờ nó tới “khó ai có thể tin mình sống nổi” trong đó có cả 3 con người đang cầm cự là Tràng, thị và cụ Tứ. Bởi dẫu Chí Phèo dù đã ở dưới đáy của xã hội, nhưng vẫn có lúc tin vào hạnh phúc với Thị Nở, còn mẹ con Tràng và những con người ngoài kia thậm chí còn chẳng tin vào việc sống sót chứ đừng nói đến hạnh phúc gia đình. Xóm ngụ cư ấy dường như đã bước một bàn chân sang nghĩa địa, sự sống và cái chết chỉ là một bức màn mỏng, mong manh vô cùng, động một cái thôi là đã có vài người ngã xuống, thảm hại và bi thương.

Bi kịch nạn đói còn thể hiện cả trong đời sống của gia đình Tràng, “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”. Nếu trong cảnh khác, mà không phải nạn đói, có lẽ chẳng ai nuốt nổi bữa cơm “đạm bạc” ấy, thế nhưng cả nhà Tràng đều ăn rất ngon lành vui vẻ. Nhưng gây ấn tượng và có giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc nhất vẫn là hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn ứ nơi cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống. Và còn biết bao nhiêu cảnh đời khốn khổ vật vạ, không có cả cám để ăn rồi chờ thần chết đến đến mang mình đi. Rồi ám ảnh đến mức trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.

Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc, người ta thấy ở đó một nạn đói kinh hoàng với những sinh linh bé nhỏ, tàn tạ bước từng bước lần về nghĩa địa, thấy được cái không khí tang thương, u uất, tràn ngập mùi tử thi bao trùm trên xóm nhỏ. Đồng thời có ý nghĩa phản ánh sự tàn ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật những kẻ đã gây ra thảm kịch cho hơn hai triệu đồng bào.

Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt – Mẫu 4

Ban-giắc nói: “Nghệ thuật phải là tấm gương xê dịch trên con đường lớn”. Câu nói đề cập tới giá trị hiện thực, một trong những chức năng quan trọng của văn học (phản ánh và cải tạo xã hội). “Vợ nhặt” của Kim Lân là một trong những tác phẩm điển hình cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học.

Trước hết, trong tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phản ánh chân thực cuộc sống thê thảm của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Khi đó, giá trị con người trở nên rẻ mạt. Anh phu Tràng chỉ mất một câu hò tầm phơ tầm phào cộng thêm bốn bát bánh đúc thế mà có vợ theo không. Còn cô vợ nhặt chỉ vì cái đó mà liều nhắm mắt đưa chân đi theo một người đàn ông xa lạ. Cái đám cưới kỳ lạ ấy diễn ra trong nền của một đám đại tang. Mặt khác, Kim Lân đã thể hiện được không khí vô cùng thê lương, ảm đạm của xã hội lúc bấy giờ. Nạn đói năm 1945 không chỉ là dấu mốc lịch sử mà nó còn là dấu ấn tinh thần khủng khiếp trong người dân lúc bấy giờ. Không gian sống trở thành một bãi tha ma lớn với những “người chết đói như ngả rạ”, “ba bốn cái thây ma nằm còng queo bên đường”… Tất cả những gì hiện hữu trong cuộc sống bây giờ chỉ là sự hiện hữu của cái chết. Cái chết hiện hình thành mùi vị (“mùi ẩm hôi”, “mùi gây của xác người”). Cái chết hiện thành hình ảnh (“bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma”). Cái chết hiện thành màu sắc (“màu đen của quạ đàn”, “màu xám của những khuôn mặt sắp chết đói”). Cái chết còn hiện hữu trong âm thanh (“tiếng khóc hờ của những gia đình có người chết đói”). Sự sống đang đuối dần trong khi cái chết ngày một chiếm lĩnh, bủa vây lấy không gian sống. Cái đói giống như nạn dịch bệnh khủng khiếp lây lan ra khắp mọi nơi. Cái chết như đã được báo trước và con người khó có thể tránh khỏi. Thậm chí, con người sẽ không thể thoát khỏi cái chết. Cái đói còn như đang rượt đuổi con người. Trong hình ảnh “bồng bế, dắt díu” rồi dẫn đến “nằm ngổn ngang”, 2 cụm động từ này đã thể hiện hình ảnh con người chạy trốn khỏi cái đói ngay ở sau lưng thì lại bị một cái đói chờ ngay trước mắt, bị nó đeo bám xung quanh. Cái chết lấn át sự sống. Lằn ranh giữa sự sống và cái chết quá mong manh. Tóm lại qua ngòi bút của Kim Lân không gian sống của con người chỉ là những bãi tha ma túy xong cái đói đấy đi tới đâu thì cái chết đi từ đấy sự sống con người chỉ là tạm thời cho nên bằng mọi giá con người phải bám lấy sự sống Tóm lại qua bức tranh hiện thực nhà văn đã gợi lại quá khứ vô cùng đau thương của dân tộc dân tộc thị phát xít Nhật và thực dân Pháp nhổ lúa trồng đay một cổ Đôi chồng.

Thứ hai, qua tác phẩm, Kim Lân còn cho thấy tấm lòng của người dân hướng về cách mạng. Tiếng thúc thuế dồn dập và những lời trao đổi của vợ chồng Tràng hướng về Việt Minh “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”, nó đã phản ánh được một hiện thực: người những người dân lao động nghèo khổ khao khát cách mạng đến nhường nào. Bởi lẽ, chỉ có cách mạng mới giúp họ thoát khỏi cái đói, cái chết. Giá trị hiện thực của tác phẩm nằm ở chỗ không chỉ diễn tả được những gì nó đã và đang diễn ra mà còn thể hiện được những gì sẽ diễn ra. Truyện ngắn đã phản ánh được hiện thực cách mạng mang tính xu thế. Tác phẩm như dự báo trước cuộc cách mạng tháng Tám “long trời lở đất” sẽ nổ ra là tất yếu. Qua việc phản ánh đó, Kim Lân đã xui người nông dân làm cách mạng, mở ra trong họ tương lai tươi sáng.

Tóm lại, giá trị hiện thực sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân đã đưa truyện ngắn này trở thành một trong những tác phẩm văn học hiện đại xuất sắc nhất. Đó cũng chính là lý do làm nên sức sống bất diệt của truyện ngắn và tên tuổi Kim Lân trong lĩnh vực văn học nghệ thuật Việt Nam.

Đăng bởi: BNC.Edu.vn

Chuyên mục: Tài Liệu Học Tập

Xem thêm Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt của Kim Lân

Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân mang đến dàn ý chi tiết và 4 bài văn mẫu siêu hay, ấn tượng nhất. Qua 4 bài phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt giúp các bạn học sinh lớp 12 có nhiều ý mới, ý hay, ý đẹp khi làm văn.

Vợ nhặt cho ta thấy rằng người dân lao động vốn có bản chất lành mạnh, luôn luôn hướng về ánh sáng với một niềm tin bất diệt. Dù hoàn cảnh có hiểm nghèo bi thảm tuyệt vọng đến đâu, dù có kề bên cái chết, vẫn khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình. Vậy dưới đây là 4 bài phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt, mời các bạn cùng theo dõi.

Dàn ý phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt

1. Mở bài

– Đề tài người nông dân trước cách mạng.

– Sơ lược về Kim Lân và giá trị hiện thực trong Vợ nhặt.

2. Thân bài:

a. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà cụ Tứ.

– Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe.

– Thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người.

– Cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đăm đăm nỗi lo không lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.

b. Xóm ngụ cư:

– Bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

– Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”

=> Nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng.

c. Bức tranh sinh hoạt gia đình Tràng:

– “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”.

– Hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn ứ nơi cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống.

– Trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.

3. Kết bài:

Khái quát lại vấn đề

Giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt – Mẫu 1

Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân đưa người đọc tới với những số phận của con người bên vực thẳm của nạn đói lịch sử nước ta năm 1945, nạn đói này đã làm chết hai triệu người dân, trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người dân.

Nhưng trong tác phẩm của mình Kim Lân đã viết một câu nói vô cùng sâu sắc rằng “Những người đói họ không đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”. Vợ nhặt Văn Đây là câu nói đầy tính nhân văn, nhân đạo của tác giả dành cho đứa con tinh thần của mình.

Chính câu nói của tác giả Kim Lân giúp chúng ta phải đi sâu tìm hiểu kỹ hơn về giá trị hiện thực sâu sắc nhân văn của tác phẩm Vợ nhặt để giải đáp cho những thắc mắc của chúng về số phận những người nông dân khốn khổ trong thời kỳ phong kiến nửa thực dân như thế nào.

Nhà văn Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, ông là người vô cùng hiểu bản chất, cũng như thói quen của người nông dân. Ông cũng là người đã trải qua nạn đói khủng khiếp này nên chỉ có nhà văn là thấu cảm nỗi khốn khổ của người dân. Nói một cách khác Kim Lân chính là nhân chứng sống của lịch sử về một giai đoạn khó khăn bần hàn của dân tộc.

Thông qua tác phẩm Vợ nhặt của mình ông cũng muốn tố cáo tội ác của giặc và chế độ phong kiến. Chính chế độ xã hội tàn ác, chà đạp lên số phận những người dân lao động khốn khổ, bóc lột, vơ vét tới tận cùng khiến cho người dân không còn đường sống, khi con giun xéo mãi cũng quằn, họ buộc phải đứng lên, vùng dậy đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc cho mình.

Trong tác phẩm của mình nhà văn Kim Lân đã đặt câu chuyện trong một bức tranh khái quát, thể hiện được đầy đủ được bối cảnh xã hội lúc đó. Kim Lân đã đặt những nhân vật của mình vào nạn đói khủng khiếp với những người nghèo khổ bồng bế dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”.

Những bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma, người chết như ngả rạ, sáng nào người đi làm đồng cũng nhìn thấy vài cái xác mới, thấy nằm còng queo bên đường, trong bầu không khí vẩn lên mùi xác người đang bốc mùi hôi thối.

Nạn đói nghèo khổ đã đã tràn đến xóm ngụ cư, nạn đói bủa vây xung quanh mọi gia đình số phận nông dân nghèo khổ. Nhân vật Tràng của chúng ta cũng không nằm ngoài quy luật đó. Anh sống cảnh mẹ góa con côi, nghèo khổ, lầm lũi, côi cút.

Bức tranh bối cảnh xã hội lúc đó người nông dân, đang ở bên bờ vực thẳm của sự sống và cái chết của nạn đói. Người chết nhiều hơn cả người sống, những người sống thì đi lại vật vờ như những thây ma. Cuộc sống lay lắt như ngọn đèn trước gió sống hôm nay không biết ngày mai sẽ ra sao.

Trong xóm ngụ cư toàn những người dân tứ xứ về ở chung những khuôn mặt hốc hác, gầy gò như bóng ma, cuộc sống đói khát, không nhà nào có đèn, có chút ánh sáng nào cả, chỉ có một bóng tối, ngồi ủ rũ trong xó đường, bất động như thây ma không nhúc nhích.

Trong gia đình Tràng sống cảnh mẹ góa con côi, Tràng làm nghề kéo xe, mẹ anh bà cụ Tứ đã già, không còn nhiều sức lao động chỉ có thể làm việc nhà, không kiếm ra tiền. Tràng cũng không giàu có con nhà danh gia vọng tộc, ngoại hình bên ngoài thì thô kệch, hai quai hàm bạnh ra, Bình thường một người như anh cu Tràng sẽ khó mà lấy được vợ nhưng trong bối cảnh nghèo khổ người chết như ngả rạ đó.

Anh cu Tràng lại dễ dàng nhặt được vợ như nhặt được món đồ từ ngoài đường mang về. Một tình huống truyện vô cùng độc đáo thể hiện sự tinh tế, phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của tác giả, khi mạng người chẳng khác nào một món đồ, một đồ vật rơi vãi ngoài đường. Nó quá rẻ rúm. Bởi cuộc sống nghèo khổ quá khiến cho người con gái, vợ anh cu Tràng cần một gia đình, cần một nơi nương tựa, một vòng tay ấm áp ở bên cạnh mình.

Thị dễ dàng nhận lời anh Tràng về làm vợ dù không có cưới xin, không có đăng ký kết hôn hay hai họ chứng kiến chúc phúc. Trong bối cảnh nghèo khổ ấy việc cưới vợ, gả chồng cũng khiến con người ta làm qua loa đại khái. Nhưng những số phận của hàng xóm những người xung quanh gia nhân vật chính của chúng ta cũng không khác gì. Những ngôi nhà rúm ró, nằm co ro trong bóng tối, cuộc sống của họ đều lay lắt như ngọn đèn trước gió, bị bóng tối nạn đói vây quanh. Sau đêm tân hôn, bữa ăn đầu tiên khiến người đọc xúc động, hình ảnh nồi cháo cám đã tái hiện hiện thực sâu sắc về nạn đói và số phận của những người nông dân nghèo khó.

Trong bữa cơm người ta nói tới những người dân phá kho thóc Nhật của Việt Minh, họ mơ ước tới cuộc sống mới, mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính nạn đói và những số phận người nông dân bi thảm là những nhân chứng sống làm nên tính hiện thực sâu sắc trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.

Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt – Mẫu 2

Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, nên ông đã dựng lên trong Vợ nhặt – một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét:

Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma và sau đó là ‘”người chết như ngả rạ”, “thây nằm còng queo bên đường”, không khí vẩn lên mùi gây của xác người”, rồi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt” và “tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya” Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.

Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: Ở xóm ngụ cư là ”những khuôn mặt hốc hác u tối” trong “cuộc sống đói khát”, “không nhà nào có ánh đèn, lửa”, đến cả trẻ con cũng “ngồi ủ rũ dưới những xó đất ; không buồn nhúc nhích”. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu áo quần rách như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên”… Số phận của họ có khác gì “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm ngổm những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”…

Có một hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Đoàn người khi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người như Tràng.

Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của những người đói và lá cờ cách mạng là những mặt chủ yếu nhất của hiện thực lúc bấy giờ được Kim Lân phản ánh bằng những nét bản chất đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm như chứng tích văn học về một sự kiện lịch sử không thể nào quên.

Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt – Mẫu 3

Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng trên văn đàn Việt Nam đã có rất nhiều những tác phẩm và những cây bút xuất sắc, nhưng ở mỗi một tác giả, tác phẩm ta lại thấy một khía cạnh riêng, mang tính cá nhân của người viết. Ví như Nguyễn Công Hoan là giọt nước mắt đau đớn, nỗi khốn khổ của người nông dân dưới những mẩu truyện ngắn cười ra nước mắt ví như Tinh thần thể dục hay Kép tư bền. Hay Ngô Tất Tố là nỗi đớn đau, xót xa cho những kiếp người cùng cực dưới nạn thuế má trong Tắt đèn. Hoặc một Nam Cao lạnh lùng, với hiện thực trần trụi đau đớn với kiếp sống đầy bi kịch của Chí Phèo.

Và rồi đến với Kim Lân, một tác giả có số lượng tác phẩm cực ít thế nhưng lại là một trong 10 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam với hai tác phẩm Làng và Vợ Nhặt. Thành công của Kim Lân đến từ sự khác biệt trong lối hành văn và cách tư duy, ông dùng cái hiện thực để làm nổi bật lên những cá tính và phẩm chất tốt đẹp của con người. Lấy tư tưởng nhân văn nhân đạo phát triển lên, không chỉ có tính phản ánh mà còn mở ra cho nhân vật của mình một lối thoát mới ấy là Cách mạng, thứ mà những nhà văn viết về đề tài này trước đó chưa khai mở được. Trong tác phẩm Vợ nhặt bức tranh hiện thực hiện lên dưới ngòi bút của Kim Lân bằng những câu văn nhẹ nhàng, nhưng vô cùng ám ảnh và u ám.

Bối cảnh trong Vợ nhặt là một bối cảnh rất đặc biệt, là giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà cụ Tứ. Người nông dân đầu tiên hiện lên ấy là Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe. Cái đói, cái khổ những năm tháng ấy khiến một anh con trai vốn sức vóc cũng trở nên tiều tụy, mệt mỏi “Tràng cúi đầu bước từng bước chậm chạp”, tàn tạ vô cùng. Còn thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người. Thị đã ở bên bờ vực của cái chết, nên thị phải chấp nhận mang trên mình cái danh người “vợ nhặt”, tựa như cọng rơm, cọng rác vứt đâu đó ngoài xó chợ. Cuối cùng là bà cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đáng lý ra nên ở nhà bồng cháu, bồng chắt, thế nhưng bà vẫn đăm đăm nỗi lo không lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.

Đó là nạn đói qua số phận ba nhân vật chính, nhưng nó còn khủng khiếp hơn khi người ta nhìn ra ngoài kia, nơi những con người của xóm ngụ cư đang đếm từng bước đến nghĩa địa. Có thể nói rằng chưa từng có một nhà văn nào lại có thể vẽ ra một bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh đến thế, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”, như tiếng vẫy gọi đầy ám ảnh của tử thần. Có thể nói rằng nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng. Bức tranh hiện thực của Kim Lân hiện lên tàn khốc đến nỗi con người ở đây dường như đã nhìn thấy cái chết của mình, và đang chậm rãi chờ nó tới “khó ai có thể tin mình sống nổi” trong đó có cả 3 con người đang cầm cự là Tràng, thị và cụ Tứ. Bởi dẫu Chí Phèo dù đã ở dưới đáy của xã hội, nhưng vẫn có lúc tin vào hạnh phúc với Thị Nở, còn mẹ con Tràng và những con người ngoài kia thậm chí còn chẳng tin vào việc sống sót chứ đừng nói đến hạnh phúc gia đình. Xóm ngụ cư ấy dường như đã bước một bàn chân sang nghĩa địa, sự sống và cái chết chỉ là một bức màn mỏng, mong manh vô cùng, động một cái thôi là đã có vài người ngã xuống, thảm hại và bi thương.

Bi kịch nạn đói còn thể hiện cả trong đời sống của gia đình Tràng, “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”. Nếu trong cảnh khác, mà không phải nạn đói, có lẽ chẳng ai nuốt nổi bữa cơm “đạm bạc” ấy, thế nhưng cả nhà Tràng đều ăn rất ngon lành vui vẻ. Nhưng gây ấn tượng và có giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc nhất vẫn là hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn ứ nơi cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống. Và còn biết bao nhiêu cảnh đời khốn khổ vật vạ, không có cả cám để ăn rồi chờ thần chết đến đến mang mình đi. Rồi ám ảnh đến mức trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.

Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc, người ta thấy ở đó một nạn đói kinh hoàng với những sinh linh bé nhỏ, tàn tạ bước từng bước lần về nghĩa địa, thấy được cái không khí tang thương, u uất, tràn ngập mùi tử thi bao trùm trên xóm nhỏ. Đồng thời có ý nghĩa phản ánh sự tàn ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật những kẻ đã gây ra thảm kịch cho hơn hai triệu đồng bào.

Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt – Mẫu 4

Ban-giắc nói: “Nghệ thuật phải là tấm gương xê dịch trên con đường lớn”. Câu nói đề cập tới giá trị hiện thực, một trong những chức năng quan trọng của văn học (phản ánh và cải tạo xã hội). “Vợ nhặt” của Kim Lân là một trong những tác phẩm điển hình cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học.

Trước hết, trong tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phản ánh chân thực cuộc sống thê thảm của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Khi đó, giá trị con người trở nên rẻ mạt. Anh phu Tràng chỉ mất một câu hò tầm phơ tầm phào cộng thêm bốn bát bánh đúc thế mà có vợ theo không. Còn cô vợ nhặt chỉ vì cái đó mà liều nhắm mắt đưa chân đi theo một người đàn ông xa lạ. Cái đám cưới kỳ lạ ấy diễn ra trong nền của một đám đại tang. Mặt khác, Kim Lân đã thể hiện được không khí vô cùng thê lương, ảm đạm của xã hội lúc bấy giờ. Nạn đói năm 1945 không chỉ là dấu mốc lịch sử mà nó còn là dấu ấn tinh thần khủng khiếp trong người dân lúc bấy giờ. Không gian sống trở thành một bãi tha ma lớn với những “người chết đói như ngả rạ”, “ba bốn cái thây ma nằm còng queo bên đường”… Tất cả những gì hiện hữu trong cuộc sống bây giờ chỉ là sự hiện hữu của cái chết. Cái chết hiện hình thành mùi vị (“mùi ẩm hôi”, “mùi gây của xác người”). Cái chết hiện thành hình ảnh (“bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma”). Cái chết hiện thành màu sắc (“màu đen của quạ đàn”, “màu xám của những khuôn mặt sắp chết đói”). Cái chết còn hiện hữu trong âm thanh (“tiếng khóc hờ của những gia đình có người chết đói”). Sự sống đang đuối dần trong khi cái chết ngày một chiếm lĩnh, bủa vây lấy không gian sống. Cái đói giống như nạn dịch bệnh khủng khiếp lây lan ra khắp mọi nơi. Cái chết như đã được báo trước và con người khó có thể tránh khỏi. Thậm chí, con người sẽ không thể thoát khỏi cái chết. Cái đói còn như đang rượt đuổi con người. Trong hình ảnh “bồng bế, dắt díu” rồi dẫn đến “nằm ngổn ngang”, 2 cụm động từ này đã thể hiện hình ảnh con người chạy trốn khỏi cái đói ngay ở sau lưng thì lại bị một cái đói chờ ngay trước mắt, bị nó đeo bám xung quanh. Cái chết lấn át sự sống. Lằn ranh giữa sự sống và cái chết quá mong manh. Tóm lại qua ngòi bút của Kim Lân không gian sống của con người chỉ là những bãi tha ma túy xong cái đói đấy đi tới đâu thì cái chết đi từ đấy sự sống con người chỉ là tạm thời cho nên bằng mọi giá con người phải bám lấy sự sống Tóm lại qua bức tranh hiện thực nhà văn đã gợi lại quá khứ vô cùng đau thương của dân tộc dân tộc thị phát xít Nhật và thực dân Pháp nhổ lúa trồng đay một cổ Đôi chồng.

Thứ hai, qua tác phẩm, Kim Lân còn cho thấy tấm lòng của người dân hướng về cách mạng. Tiếng thúc thuế dồn dập và những lời trao đổi của vợ chồng Tràng hướng về Việt Minh “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”, nó đã phản ánh được một hiện thực: người những người dân lao động nghèo khổ khao khát cách mạng đến nhường nào. Bởi lẽ, chỉ có cách mạng mới giúp họ thoát khỏi cái đói, cái chết. Giá trị hiện thực của tác phẩm nằm ở chỗ không chỉ diễn tả được những gì nó đã và đang diễn ra mà còn thể hiện được những gì sẽ diễn ra. Truyện ngắn đã phản ánh được hiện thực cách mạng mang tính xu thế. Tác phẩm như dự báo trước cuộc cách mạng tháng Tám “long trời lở đất” sẽ nổ ra là tất yếu. Qua việc phản ánh đó, Kim Lân đã xui người nông dân làm cách mạng, mở ra trong họ tương lai tươi sáng.

Tóm lại, giá trị hiện thực sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân đã đưa truyện ngắn này trở thành một trong những tác phẩm văn học hiện đại xuất sắc nhất. Đó cũng chính là lý do làm nên sức sống bất diệt của truyện ngắn và tên tuổi Kim Lân trong lĩnh vực văn học nghệ thuật Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Check Also
Close